(VINANET) – Trên thị trường thế giới phiên giao dịch 2/6 (kết thúc vào rạng sáng 3/6 giờ VN), giá các hàng hóa chủ chốt đồng loạt tăng. Một trong những nguyên nhân chính do USD giảm so với EUR.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng lên mức cao kỷ lục trong năm khi USD giảm và đồn đoán nguồn cung dầu của Mỹ trong tuần qua giảm tuần thứ 5 liên tiếp.
Dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 7/2015 trên sàn Nymex New York tăng 1,06 USD, tương đương 1,8%, lên 61,26 USD/thùng, cao nhất kể từ 9/12/2014. Giá dầu WTI đã tăng 41% kể từ khi giảm xuống thấp nhất gần 6 năm hồi tháng 3 vừa qua. Giá dầu Brent giao tháng 7/2015 trên sàn ICE Futures Europe London tăng 61 cent, tương ứng 0,9%, lên 65,49 USD/thùng.
Giá dầu đang phản ứng trước diễn biến của USD trong những tuần gần đây. Chỉ số Đôla Wall Street Journal, theo dõi USD với 16 đồng tiền, phiên 2/6 giảm 1,3%.
Giới kinh doanh tin rằng dư cung trên thị trường dầu thô toàn cầu đang giảm khi nhu cầu tăng và số giàn khoan đang hoạt động cũng như hoạt động khoan dầu của Mỹ giảm. Lượng dầu lưu kho của Mỹ đã giảm 4 tuần liên tiếp kể từ khi lên cao kỷ lục hồi tháng 4.
Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 7/2015 trên sàn Nymex tăng 2,26 cent, tương ứng 1,1%, lên 2,0648 USD/gallon. Giá dầu diesel giao tháng 7/2015 tăng 1,91 cent, hoặc 1%, lên 1,9455 USD/gallon.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tăng bất chấp USD giảm. Giá vàng giao ngay tăng 0,4% lên 1.193,75 USD/ounce, trong khi giá vàng giao tháng 8/2015 tăng 5,7 USD, tương đương 0,5%, lên 1.194,4 USD/ounce, cao nhất kể từ 22/5.
USD chịu áp lực khi số liệu cho thấy số đơn hàng đặt hàng nhà máy bất ngờ giảm trong tháng 4.
USD giảm mạnh nhất so với đồng tiền chung kể từ giữa tháng 3 trước đồn đoán Hy Lạp có thể đạt được thỏa thuận với các chủ nợ.
Giới kinh doanh vàng đang theo dõi thông tin về khủng hoảng nợ tại Hy Lạp khi các chủ nợ quốc tế đồng ý làm việc với “cường độ thực” trong những ngày tới trong một nỗ lực đạt được thỏa thuận đàm phán nợ với Athens.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,4% lên 16,77 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,8% lên 1.108,1 USD/ounce, trong khi giá palladium giảm 0,8% xuống 765,01 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê tiếp tục tăng. Trên sàn New York, arabica kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 2,9 US cent/lb lên 132,7 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá tăng 3 US cent/lb lên 135,05 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 12/2015 giá tăng 2,9 US cent/lb lên 138,55 US cent/lb; và kỳ hạn giao tháng 3/2016 giá tăng 2,85 US cent/lb lên 142,05 US cent/lb.
Giá cà phê Arabica tăng sau khi Neumann Kaffee đưa ra dự đoán sản lượng cà phê Brazil vụ mới đạt 47,3 triệu bao, thấp hơn so với kỳ vọng của thị trường và một loạt các dự báo trước đó, kể cả Volcafe.
Trong khi đó, Carlos Mera nhà phân tích tại Rabobank cho biết, nông dân cà phê Việt Nam - nước sản xuất cà phê Robusta lớn nhất thế giới - vẫn găm hàng chờ giá lên.
Trên sàn London, robusta kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 24 USD/tấn lên 1.723 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá tăng 22 USD/tấn lên 1.740 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 11/2015 giá tăng 22 USD/tấn lên 1.759 USD/tấn; và kỳ hạn giao tháng 1/2016 giá tăng 21 USD/tấn lên 1.778 USD/tấn.
Cà phê Việt Nam tăng theo xu hướng giá thế giới. Sáng nay 3/6, giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên tăng 400.000-500.000 đồng/tấn lên 36,5-36,9 triệu đồng/tấn, ghi nhận phiên thứ 5 tăng liên tiếp. Giá cà phê Robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB tăng 31 USD từ 1.742 USD/tấn lên 1.773 USD/tấn.
Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO) cho biết, xuất khẩu cà phê thế giới trong tháng 4/2015 đạt 9,43 triệu bao, giảm 920.000 bao, tương ứng 9,75%, so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, xuất khẩu cà phê toàn cầu 7 tháng đầu năm cà phê tháng 10/2014 - tháng 9/2015 đạt 62,51 triệu bao, giảm 3,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
61,26
|
+1,06
|
+1,8%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
65,49
|
+0,61
|
+0,9%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
50.300,00
|
+310,00
|
+0,62%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,69
|
-0,01
|
-0,30%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
205,40
|
-1,08
|
-0,52%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
193,64
|
-0,91
|
-0,47%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
597,25
|
--
|
--
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
64.850,00
|
+370,00
|
+0,57%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.193,75
|
+2,70
|
+0,4%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.741,00
|
-6,00
|
-0,13%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,74
|
-0,06
|
-0,35%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
66,90
|
-0,10
|
-0,15%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz,
|
1.114,41
|
+0,85
|
+0,08%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz,
|
768,14
|
+0,08
|
+0,01%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
274,60
|
+1,00
|
+0,37%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.040,00
|
+16,00
|
+0,27%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.740,50
|
-21,50
|
-1,22%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.158,00
|
+3,00
|
+0,14%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
15.530,00
|
+160,00
|
+1,04%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
359,50
|
+0,50
|
+0,14%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
513,50
|
+1,00
|
+0,20%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
252,50
|
-0,25
|
-0,10%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
9,77
|
0,00
|
-0,05%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
941,25
|
+0,50
|
+0,05%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
300,70
|
-1,10
|
-0,36%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
34,23
|
+0,06
|
+0,18%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
479,30
|
-3,30
|
-0,68%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.112,00
|
+59,00
|
+1,93%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
132,70
|
+2,90
|
+2,23%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,32
|
+0,07
|
+0,57%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
110,50
|
-5,80
|
-4,99%
|
Bông
|
US cent/lb
|
63,74
|
+0,14
|
+0,22%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
265,20
|
-0,20
|
-0,08%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
242,50
|
+2,10
|
+0,87%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,53
|
+0,03
|
+2,07%
|
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg