menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG sáng 9/12: Giá thấp nhất kể từ 2009

11:33 09/12/2014

Giá hàng hóa trên thị trường thế giới phiên giao dịch 8/12 (kết thúc vào rạng sáng 9/12 giờ VN) tiếp tục giảm sau khi Iraq nối theo nước xuất khẩu dầu hàng đầu Saudi Arabia giảm giá bán sang châu Á. Đồng và vàng cũng giảm.

(VINANET) – Giá hàng hóa trên thị trường thế giới phiên giao dịch 8/12 (kết thúc vào rạng sáng 9/12 giờ VN) tiếp tục giảm sau khi Iraq nối theo nước xuất khẩu dầu hàng đầu Saudi Arabia giảm giá bán sang châu Á. Đồng và vàng cũng giảm.

Chỉ số giá hàng hóa Bloomberg (BCOM) gồm 33 nguyên liệu giảm 0,1% xuống 110,5383, mức thấp nhất kể từ tháng 4/2009. Chỉ số giá dầu thô Tây Texas (WTI) cũng giảm xuống mức thấp nhất trong vồng hơn 5 năm.

Giá hàng hóa đã giảm 12% trong năm nay, là năm thứ 4 liên tiếp giảm, bởi dầu thô giảm 36%. Sản lượng dầu Mỹ cao nhất trong vòng hơn 3 thập kỷ làm gia tăng dư cung trên toàn cầu bởi Tổ chức các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) không cắt giảm sản lượng. Trung Quốc, nước tiêu thụ kim loại và nhiên liệu lớn nhất thế giới, đang tăng trưởng chậm nhất kể từ năm 1990.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu phiên đầu tuần thấp nhất 5 năm khi Phố Wall dự đoán giá giảm sâu hơn và dư cung toàn cầu sẽ còn tiếp tục đến nửa đầu năm tới. Số liệu kinh tế Trung Quốc và Nhật Bản thấp hơn dự đoán cũng kéo giảm giá dầu.

Giá dầu WTI kỳ hạn giao tháng 1/2015 trên sàn Nymex New York giảm 2,79 USD xuống 63,05 USD/thùng, thấp nhất kể từ 16/7/2009. Khối lượng giao dịch thấp hơn 13% so với mức trung bình 100 ngày. Đến nay, giá dầu WTI đã giảm 36%.

Giá dầu Brent giao tháng 1/2015 trên sàn ICE Futures Europe London giảm 2,88 USD (-4,2%) xuống 66,19 USD/thùng, thấp nhất kể từ 29/9/2009. Khối lượng giao dịch thấp hơn 4,9% so với mức trung bình 100 ngày. Đến nay, giá dầu Brent đã giảm 40%.

Iraq hôm thứ Hai 8/12 đã hạ giá bán dầu giao tháng 1/2015 cho khách hàng châu Á và Mỹ, nhưng lại nâng giá bán cho khách hàng châu Âu sau động thái tương tự của Arab Saudi hồi đầu tháng 12. Giới quan sát thị trường cho rằng việc giảm giá bán là nhằm giữ thị phần – quan điểm có thể khiến giá dầu giảm sâu hơn.

Các nhà sản xuất và thương nhân dầu mỏ đang phải cạnh tranh để tìm người mua trong bối cảnh kinh tế châu Á tăng trưởng chậm lại, nhất là Trung Quốc và Nhật Bản.

Quyết định giữ nguyên mục tiêu sản lượng của OPEC trong tháng trước đã củng cố niềm tin của giới đầu tư, phân tích rằng thị trường dầu toàn cầu sẽ tiếp tục dư cung trong năm 2015.

Số liệu công bố hôm thứ Hai 8/11 cho thấy, tăng trưởng kinh tế Nhật Bản giảm 1,9% trong quý III/2014, cao hơn ước tính, trong khi tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc tháng 11 cũng giảm xuống 4,7% so với mức tăng 11,6% trong tháng 10. Trung Quốc và Nhật Bản là nước tiêu thụ dầu thô lớn thứ 2 và thứ 3 thế giới sau Mỹ.

Hôm thứ Sáu 5/12 các nhà phân tích Morgan Stanley đã hạ dự báo giá dầu Brent đến năm 2018. Theo đó, Morgan Stanley dự báo giá dầu Brent năm 2015 trung bình đạt 70 USD/thùng, giảm từ 98 USD/thùng dự báo trước đó, và cảnh báo giá dầu có thể giảm xuống 43 USD/thùng vào năm tới.

Nếu OPEC không can thiệp, thị trường dầu sẽ ngày càng mất cân bằng và dư cung sẽ lên đỉnh điểm trong quý II/2015, Adam Longson, nhà phân tích tại Morgan Stanley, cho biết.

Các nước sản xuất dầu thô, cả OPEC và ngoài OPEC, bắt đầu ngấm đòn do dầu mất giá, kéo giảm tăng trưởng kinh tế và khiến đồng nội tệ lao dốc. Ngân hàng trung ương tại một số nước như Nga đã phải can thiệp để ngăn đà giảm giá của nội tệ. Hôm thứ Hai 8/12 Mexico cũng công bố kế hoạch can thiệp, theo đó, ngân hàng trung ương nước này sẽ bán USD để hỗ trợ đồng nội tệ peso khi đồng tiền này giảm 1,5% so với USD.

Cuối tuần này, Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ, các nước OPEC và Cơ quan Năng lượng Quốc tế sẽ công bố báo cáo hàng tháng, cung cấp thông tin chi tiết hơn về cung cầu dầu toàn cầu.

Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 1/2015 trên sàn Nymex giảm 6,68 cent (-3,8%) xuống 1,7066 USD/gallon, thấp nhất kể từ tháng 29/9/2009. Giá dầu diesel giao tháng 1/2015 giảm 5,29 cent (-2,5%) xuống 2,0549 USD/gallon, thấp nhất kể từ 1/9/2010.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng phiên đầu tuần tăng 1% lên 1.203,51 USD/ounce do lực mua kỹ thuật tăng sau khi USD rơi khỏi đỉnh 5 năm.

Giá vàng kỳ hạn giao tháng 2/2015 trên sàn Comex New York tăng 0,4% lên 1.194,9 USD/ounce. Khối lượng giao dịch thấp hơn 38% so với mức trung bình 100 ngày.

Bên cạnh đó, giá vàng cũng tăng trước những dấu hiệu cho thấy tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại và mối lo ngại các ngân hàng trung ương sẽ tăng cường kích thích, làm tăng lạm phát, kéo giảm giá tiền tệ.

Giá vàng hôm thứ Sáu tuần trước 5/12 đã giảm 1,1% khi số liệu cho thấy các doanh nghiệp Mỹ đã tuyển dụng thêm 321.000 nhân viên, ghi nhận tháng tuyển dụng mạnh nhất trong gần 3 năm qua, cao hơn nhiều mức tăng 243.000 của tháng 10 và dự báo của các chuyên gia và mức lương cũng tăng.

USD đầu phiên 8/12 lên gần mức cao nhất kể từ tháng 3/2009 sau báo cáo việc làm của Mỹ nhưng dần về cuối phiên lại giảm.

Giá chứng khoán châu Âu giảm khi số liệu cho thấy nhập khẩu của Trung Quốc giảm và kinh tế Nhật Bản quý III/2015 tăng trưởng chậm hơn báo cáo ban đầu do sự sụt giảm trong đầu tư doanh nghiệp.

Kinh tế Mỹ tiếp tục đà tăng trưởng có thể khiến Fed sớm nâng lãi suất, đẩy giá USD lên và tác động tiêu cực đến giá vàng.

Trong tuần kết thúc vào 2/12, các quỹ phòng hộ và nhà quản lý tiền tệ đã tuần thứ 3 liên tiếp nâng tỷ lệ đặt cược vào giá vàng tăng, lên mức cao nhất kể từ tháng 8, theo số liệu của chính phủ Mỹ công bố hôm 5/12.

Lượng vàng nắm giữ của Quỹ tín thác lớn nhất thế giới SPDR hôm thứ Sáu 5/12 tăng 0,12% lên 720,91 tấn, mặc dù vẫn gần với mức thấp nhất 6 năm qua.

Trong số các kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,4% lên 16,31 USD/ounce, giá bạch kim tăng 1,2% lên 1.229,45 USD/ounce và giá palladium tăng 0,2% lên 799,5 USD/ounce.

Trên thị trường nông sản, giá cà phê cũng giảm. Tại New York, cà phê arabica kỳ hạn giao tháng 12 giảm 2,05 US cent/lb xuống 177,05 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 2,05 US cent/lb xuống 178,05 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 2,05 US cent/lb xuống 180,6 US cent/lb; và kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 2 US cent/lb xuống 183 US cent/lb.

Tại London, cà phê robusta kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá giảm 24 USD/tấn (-1,19%) xuống 2.014 USD/tấn; Kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 19 USD/tấn (-0,93%) xuống 2.034 USD/tấn; Kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 15 USD/tấn (-0,73%) xuống 2.051 USD/tấn; và Kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 14 USD/tấn (-0,68%) xuống 2.067 USD/tấn.

Trên thị trường Việt Nam, sáng nay (9/12), giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên giảm 400.0000 đồng/tấn xuống 40,1-40,8 triệu đồng/tấn.Giá cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay giảm 19 USD/tấn từ 1.993 USD/tấn phiên cuối tuần trước xuống 1.974 USD/tấn.

Theo Báo cáo Cam kết Thương nhân mới nhất, trong tuần kết thúc vào 2/12, Quỹ quản lý tiền tệ đã giảm 5,42% vị thế mua ròng cà phê arabica chế biến ướt trên sàn New York xuống 35.783 lô. Cùng kỳ, Quỹ chỉ số tăng 1,09% vị thế mua ròng lên 40.090 lô, trong khi giới đầu cơ phi thương mại giảm 11,9% vị thế mua ròng xuống 31.217 lô, tương đương 8.849.881 bao.

Hiệp hội Xuất khẩu Cà phê Ethiopia cho biết, xuất khẩu cà phê của nước này trong 4 tháng đầu năm tài khóa 2014-2015 (tháng 7 – tháng 6) tang 5,88% lên 900.0000 bao và dự đoán xuất khẩu cà phê cả năm tăng 23,68% lên 3.916.667 bao.

Trữ lượng lưu kho cà phê arabica chế biến ướt có chứng chỉ trên sàn New York hôm thứ Sáu 5/12 giảm 4.919 bao xuống 2.317.951 bao, trong khi số bao chờ đánh giá, phân hạng không đổi ở 18.550 bao.

Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá 9/12
+/-
+/- (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
62,41
-0,64
-1,02%
Dầu Brent
USD/thùng
65,58
-0,61
-0,92%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
50.390,00
-2.170,00
-4,13%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
3,62
+0,02
+0,61%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
169,84
-0,82
-0,48%
Dầu đốt
US cent/gallon
204,16
-1,33
-0,65%
Dầu khí
USD/tấn
595,00
-6,25
-1,04%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
61.840,00
-2.350,00
-3,66%
Vàng New York
USD/ounce
1.201,00
+6,10
+0,51%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.657,00
+4,00
+0,09%
Bạc New York
USD/ounce
16,34
+0,06
+0,39%
Bạc TOCOM
JPY/g
63,50
-0,10
-0,16%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz,
1.231,38
-2,75
-0,22%
Palladium giao ngay
USD/t oz,
801,00
0,00
0,00%
Đồng New York
US cent/lb
288,15
-0,40
-0,14%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.405,00
-46,00
-0,71%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.966,00
-16,00
-0,81%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.217,00
-20,00
-0,89%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
20.455,00
+255,00
+1,26%
Ngô
US cent/bushel
388,50
-1,75
-0,45%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
593,25
-4,75
-0,79%
Lúa mạch
US cent/bushel
317,25
+2,75
+0,87%
Gạo thô
USD/cwt
12,05
0,00
0,00%
Đậu tương
US cent/bushel
1.040,00
-3,75
-0,36%
Khô đậu tương
USD/tấn
369,60
-0,50
-0,14%
Dầu đậu tương
US cent/lb
31,67
-0,18
-0,57%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
425,90
-0,50
-0,12%
Cacao Mỹ
USD/tấn
2.903,00
+13,00
+0,45%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
178,05
-2,05
-1,14%
Đường thô
US cent/lb
15,30
+0,16
+1,06%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb
147,00
+1,00
+0,68%
Bông
US cent/lb
59,37
+0,06
+0,10%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
341,80
+0,20
+0,06%
Cao su TOCOM
JPY/kg
193,20
-7,50
-3,74%
Ethanol CME
USD/gallon
1,72
-0,02
-0,87%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg