menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa thế giới sáng 21/2: Dầu và khí giảm, vàng hồi phục

09:52 21/02/2014

Kết thúc phiên giao dịch 20/2 trên thị trường thế giới (vào rạng sáng 21/2 giờ VN), giá vàng tăng 12 USD lên 1.323 USD/ounce do số liệu sản xuất bi quan từ Trung Quốc. Trái lại giá dầu và khí đều giảm.

(VINANET) – Kết thúc phiên giao dịch 20/2 trên thị trường thế giới (vào rạng sáng 21/2 giờ VN), giá vàng tăng 12 USD lên 1.323 USD/ounce do số liệu sản xuất bi quan từ Trung Quốc. Trái lại giá dầu và khí đều giảm.

Giá vàng đảo chiều tăng sau phiên giảm trước đó, sau tin tức chỉ số sản xuất (PMI) của Trung Quốc tháng 2 giảm mạnh nhất 7 tháng, sau hai phiên giảm liên tiếp trước đó, khi biên bản cuộc họp chính sách của FED công bố hôm 19/2 cho thấy cơ quan này vẫn muốn cắt giảm kích thích.

Tuy nhiên, giới phân tích cho rằng đà tăng này có thể không, khi triển vọng kinh tế toàn cầu nhìn chung đang hồi phục và Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) tiếp tục giảm kích thích, nhu cầu trú ẩn tại vàng sẽ giảm sút.

Vàng kỳ hạn giao tháng 4 giảm 3,5 USD xuống 1.317 USD một ounce. Khối lượng giao dịch thấp hơn 20% so với trung bình 30 ngày.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu thô và khí gas phiên vừa qua đều đồng loạt giảm, do chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau, từ lượng cung tuần qua cho tới hoạt động sản xuất ở Trung Quốc, châu Âu.

Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ công bố báo cáo cho biết, trong tuần kết thúc ngày 14/2 vừa qua, lượng cung khí đốt đã giảm 250 tỷ feet khối. Mức giảm này nằm trong vùng dự báo của giới phân tích trong cuộc điều tra trước đó của Platts, từ 248 tỷ đến 252 tỷ feet khối.

Chốt phiên giao dịch, giá khí đốt hợp đồng tháng 3 quay đầu giảm nhẹ 8,5 cent, tương ứng với mức giảm 1,4%, xuống còn 6,06 USD/ triệu BTU trên sàn hàng hóa New York. Trước đó, trong phiên, giá khí đốt hợp đồng kỳ hạn loại này có lúc còn tụt xuống ngưỡng thấp, khoảng 5,92 USD.

Cùng đi xuống với giá khí đốt trong ngày, giá dầu thô ngọt, nhẹ giao tháng 3 trên sàn giao dịch hàng hóa New York đã giảm 39 cent, tương ứng với mức 0,4%, xuống còn 102,92 USD mỗi thùng vào cuối phiên 20/2. Giá dầu thô ngọt, nhẹ giao tháng 4 thì giảm 9 cent, xuống còn 102,75 USD mỗi thùng.

Xu hướng giảm giá dầu thô chủ yếu là do số liệu sản xuất yếu kém từ Trung Quốc. Chỉ số quản lý sản xuất sơ bộ do ngân hàng HSBC công bố chạm mức thấp nhất trong 7 năm. Ngoài ra, việc chỉ số kinh doanh khu vực đồng Euro mất động lực cũng tác động xấu lên thị trường.

Giá dầu thô giảm đêm qua còn một phần là do báo cáo từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ chi nhánh Philadelphia cho thấy chỉ số sản xuất khu vực này giảm mạnh trong tháng 2. Điều này đã xóa nhòa ảnh hưởng tích cực từ báo cáo về chỉ số quản lý sản xuất tại Mỹ trong tháng 2 tăng lên mức cao nhất 4 năm.

Cũng trong phiên giao dịch vừa qua, Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ công bố báo cáo cho biết, trong tuần kết thúc ngày 14/2, lượng cung dầu thô đã tăng 1 triệu thùng, thấp hơn mức dự báo tăng 1,9 triệu thùng của giới phân tích trong cuộc khảo sát dư luận trước đó do tổ chức Platts tiến hành.

Theo báo cáo này, lượng cung xăng trong tuần tăng 300.000 thùng, các chế phẩm khác từ dầu thô (bao gồm cả dầu sưởi) giảm 300.000 thùng. Trong khi, theo dự báo của các chuyên gia thị trường thì cung xăng giảm 1,3 triệu thùng, cung các chế phẩm khác từ dầu thô cũng hạ mạnh, đến 2 triệu thùng.

Báo cáo trên đã lập tức có tác động mạnh tới giá xăng, dầu sưởi giao sau trên sàn New York. Trong đó, giá dầu sưởi giao tháng 3 tăng được 3 cent, tương ứng mức tăng 1%, lên 3,18 USD mỗi gallon. Giá xăng giao cùng kỳ hạn tăng được 2 cent, tương ứng với mức tăng 0,8% lên 2,85 USD mỗi gallon.

Trong khi đó, trên sàn London, giá dầu thô ngọt, nhẹ giao tháng 4 giảm 17 cent, tương ứng với mức giảm 0,2%, xuống còn 110,30 USD mỗi thùng. Với mức giảm khá mạnh này, hiện khoảng chênh lệch giá giữa dầu thô giao sau trên sàn New York và sàn London đã bị thu hẹp, xuống còn hơn 7 USD.

Trên thị trường hàng hóa nhẹ, xu hướng tăng giá cà phê arabica đang có dấu hiệu chậm lại sau khi tăng 50% trong năm nay.
Trong phiên có lúc giá cà phê giao kỳ hạn tháng 5 tăng lên mức 177,50 cts/lb, cao hơn 57% so với hồi đầu năm.
Tuy nhiên, giá đã hạ nhiệt trở lại mức 165,90 US cent/lb vào lúc đóng cửa, tính chung trong ngày giảm 3,9%. Nhiều nhà phân tích cho rằng các nhà đầu tư đã phản ứng thái quá với các mối đe dọa khan hiếm nguồn cung cà phê do thời tiết khô hạn đang diễn ra tại Brazil điều đó đã thúc đẩy giá cà phê leo thang. Thời tiết khô hạn trong gần 2 tháng qua tại Brazil đã làm ảnh hưởng đặc biệt tới Minas Gerais, khu vực sản xuất cà phê hàng đầu thế giới.

Cơ quan khí tượng Somar của Brazil mới đây cho biết một đợt không khí lạnh sẽ xuất hiện vào cuối tuần này mang tới một số cơn mưa.

Commerzbank cho biết, “Tốc độ của sự tăng giá trong những tuần gần đây diễn ra quá mạnh, chúng tôi hy vọng giá sẽ giảm từ giờ đến cuối năm”.
Song Macquarie vẫn cho rằng, “tình hình thời tiết khô hạn như hiện nay của Brazil là chưa từng xảy ra và rất khó để đánh giá bao nhiêu mức độ thiệt hại đã gây ra cho cây cà phê”. Nhưng ở mức cao như hiện nay, chúng tôi tin rằng giá cà phê dường như đang được mua quá mức so với nhu cầu.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá
+/-
+/- (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
102,73
-0,02
-0,02%
Dầu Brent
USD/thùng
110,31
+0,01
+0,01%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
67.640,00
+660,00
+0,99%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
6,17
+0,10
+1,72%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
285,47
+0,81
+0,28%
Dầu đốt
US cent/gallon
317,77
0,00
0,00%
Dầu khí
USD/tấn
938,75
+1,25
+0,13%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
78.800,00
+610,00
+0,78%
Vàng New York
USD/ounce
1.320,50
+3,60
+0,27%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.349,00
+46,00
+1,07%
Bạc New York
USD/ounce
21,72
-0,14
-0,62%
Bạc TOCOM
JPY/g
71,50
+1,00
+1,42%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz.
1.417,50
-0,06
-0,00%
Palladium giao ngay
USD/t oz.
737,05
-0,35
-0,05%
Đồng New York
US cent/lb
328,15
+0,25
+0,08%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
7.155,00
-26,00
-0,36%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.772,00
+3,00
+0,17%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.049,00
-11,00
-0,53%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
23.095,00
-100,00
-0,43%
Ngô
US cent/bushel
462,25
0,00
0,00%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
614,25
+0,75
+0,12%
Lúa mạch
US cent/bushel
428,00
-5,75
-1,33%
Gạo thô
USD/cwt
15,50
+0,02
+0,13%
Đậu tương
US cent/bushel
1.346,00
-1,75
-0,13%
Khô đậu tương
USD/tấn
436,10
-0,90
-0,21%
Dầu đậu tương
US cent/lb
40,80
-0,02
-0,05%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
421,20
-0,30
-0,07%
Cacao Mỹ
USD/tấn
2.976,00
+42,00
+1,43%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
169,45
-3,15
-1,83%
Đường thô
US cent/lb
16,69
-0,16
-0,95%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
147,20
+3,80
+2,65%
Bông
US cent/lb
87,65
-0,26
-0,30%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
1.027,00
0,00
0,00%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
358,20
+1,50
+0,42%
Cao su TOCOM
JPY/kg
225,70
+1,30
+0,58%
Ethanol CME
USD/gallon
2,03
-0,03
-1,36%

T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters,Bloomberg