menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa thế giới sáng 25/7: Dầu thô giảm, cà phê tăng mạnh

07:29 25/07/2014

Phiên giao dịch 24/7 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 25/7 giờ VN), giá hàng hóa biến động khá mạnh. Dầu thô giảm do nguồn cung tăng, vàng cũng giảm nhưng cacao và cà phê lại tăng mạnh. Những số liệu kinh tế mới công bố đang chi phối thị trường hàng hóa, theo đó triển vọng tăng trưởng kinh tế nhìn chung khả quan.

(VINANET) – Phiên giao dịch 24/7 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 25/7 giờ VN), giá hàng hóa biến động khá mạnh. Dầu thô giảm do nguồn cung tăng, vàng cũng giảm nhưng cacao và cà phê lại tăng mạnh. Những số liệu kinh tế mới công bố đang chi phối thị trường hàng hóa, theo đó triển vọng tăng trưởng kinh tế nhìn chung khả quan.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) trên thị trường New York giảm sau báo cáo cho thấy tồn trữ xăng tăng tuần thứ 3 liên tiếp tại Mỹ - nước tiêu thụ hàng đầu thế giới. Dầu Brent tại London cũng giảm.

Dầu WTI có kỳ hạn giảm tới 0,4% sau khi tăng 0,7% phiên trước đó.

Theo Cơ quan Năng lượng Hoa Kỳ, tồn trữ xăng tăng 3,38 triệu thùng, gấp ba lần mức dự kiến là tăng 1 triệu thùng.

Các nhà máy lọc dầu ở Mỹ đang hoạt động với công suất cao khiến tồn trữ xăng tăng trong khi tồn trữ dầu giảm. Được biết, tồn trữ dầu thô ở Cushing, Oklahoma, trung tâm trữ dầu lớn nhất của Mỹ giảm 1,45 triệu thùng xuống 18,8 triệu thùng.

Dầu WTI kỳ hạn giao tháng 9 kết thúc phiên giao dịch ở mức 102,87 USD/thùng, giảm 25 US cent so với phiên trước đó. Tuy nhiên, hiện giá vẫn cao hơn 4,5% so với hồi đầu năm.

Dầu Brent tại London giá giảm 17 US cent xuống 107,86 USD/thùng.
Mỹ đang trong mùa du lịch – kéo dài từ 26/5 đến 1/9, mùa tồn trữ xăng thường giảm do tiêu thụ tăng. Việc tồn trữ tăng vào lúc này cho thấy các nhà sản xuất kỳ vọng vào tăng trưởng kinh tế nhiều hơn thực tế.

Tuy nhiên, tại châu Á, nơi chiếm khoảng 11% nhu cầu dầu toàn cầu trong năm nay so với 21% của Mỹ, triển vọng nhu cầu khả quan khi số liệu sơ bộ của HSBC cho thấy chỉ số quản lý sức mua (PMI) của Trung Quốc tháng 7 đạt 52 điểm, cao hơn so với dự báo 51 điểm của các chuyên gia và 50,7 điểm của tháng 6.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng giảm xuống thấp nhất 4 tuần trước viễn cảnh tăng trưởng kinh tế toàn cầu làm giảm nhu cầu tài sản trú ẩn an toàn đối với vàng.

Giá vàng giảm 1% xuống dưới 1.300 USD/ounce khi đồng USD và chứng khoán tăng, số đơn thất nghiệp của Mỹ trong tuần trước giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 2/2006, Chỉ số Standard & Poor’s 500 ngày hôm qua đạt kỷ lục.

Số liệu từ châu Âu cũng cho thấy lĩnh vực dịch vụ tại khu vực eurozone 18 hoạt động tốt hơn dự báo của 39 nhà kinh tế học trong cuộc khảo sát của Reuters.

Giá vàng giao tháng 8 giảm 13,9 USD xuống 1.290,8 USD/ounce. Các nhà kinh doanh cho biết họ đã đặt lệnh bán cắt lỗ với giá dưới 1.300 USD/ounce.

Những thông tin trên đã khiến nhà đầu tư chuyển hướng sự chú ý ra khỏi xung đột tại dải Gaza giữa Hamas và Israel, căng thẳng tại khu vực Crimea sau khi Mỹ và EU áp đặt lệnh trừng phạt với Nga cũng như thảm họa MH17 – đã làm giá vàng tăng trong tuần trước.

Adam Hewison, chủ tịch Marketclub.com tại Annapolis, Maryland, cho biết “Tôi nghĩ mọi người có quyền thất vọng rằng những căng thẳng trên thế giới không giúp cho giá vàng tiếp tục tăng”.

David Merger, giám đốc giao dịch kim loại tại Vision Financial Markets ở Chicago, cho biết “Người ta không cần đến vàng nữa khi có nhiều dấu hiệu cho thấy kinh tế toàn cầu đang tăng trưởng tốt. Nhu cầu tài sản trú ẩn an toàn do căng thẳng địa chính trị chỉ mang tính tạm thời”.

USD tăng lên mức cao nhất 1 tuần qua so với đồng yên và tăng 0,1% so với các đồng tiền chính trong giỏ tiền tệ sau khi số liệu cho thấy số đơn mới xin trợ cấp thất nghiệp giảm xuống mức thấp nhất kể từ 2006.

Báo cáo việc làm tích cực của Mỹ trong tháng trước làm gia tăng đồn đoán lãi suất sẽ tăng sớm hơn dự kiến.

Một diễn biến khác đáng chú ý là nhập khẩu ròng vàng từ Hong Kong vào Trung Quốc, nước sử dụng vàng lớn nhất thế giới, tháng 5 giảm xuống 52,3 tấn, giảm 20% so với tháng 4. Như vậy, nhập khẩu vàng từ Hong Kong trong 5 tháng đầu năm nay đạt 406,833 tấn, giảm 1,58% so với cùng kỳ năm ngoái.

Giá bạc giảm 2,5% xuống 20,34 USD/ounce, giá bạch kim giảm 0,8% xuống 1.465,3 USD/ounce, trong khi giá palladium ổn định ở 868,25 USD/ounce.

Trên thị trường nông sản, cacao tăng lên mức cao kỷ lục 3 năm, cà phê cũng tăng giá mạnh.

Giá cacao kỳ hạn tại New York tăng vọt và kết thúc một tuần có khối lượng giao dịch tăng mạnh nhất kể từ tháng 1 bởi giá tăng cao.

Cacao kỳ hạn tháng 9 tại New York giá tăng 13 USD hay 0,4% lên 3.198 USD/tấn, cao kỷ lục 3 năm. Hợp đồng này đã tăng 3,8% trong tuần qua. Lý do bởi hãng Mars Chocolate North America cho biết họ sẽ nâng giá mua thêm khoảng 7%, sau khi Hershey Co's HSY.N nâng 8% trong tuần trước. Giá tăng chứng tỏ nhu cầu đang gia tăng mạnh.

Cà phê cũng tăng giá khá mạnh, với arabica kỳ hạn tháng 9 tăng 1,7 US cent lên 1. 7830 USD/lb, trong khi robusta cùng kỳ hạn tăng 1,9% hay 38 USD lên 2.032 USD/tấn.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá 24/7

25/7
+/-
+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng
103,10
102,05
- 1.05
-0,02%

Dầu Brent

USD/thùng
108,11
107,07
- 1.04
-0,89%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl
66.800,00
66.560,00
-50,00
-0,08%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu
3,76
3,84
-0,01
-0,23%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

286,64
284,83
-1,18
-0,41%

Dầu đốt

US cent/gallon

287,93
287,50
+0,41
+0,14%

Dầu khí

USD/tấn
888,50
888,50
-2,00
-0,22%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl
83.350,00
83.040,00
-30,00
-0,04%

Vàng New York

USD/ounce
1.299,60
1.294,30
+1,60
+0,12%

Vàng TOCOM

JPY/g
4.241,00
4.233,00
+3,00
+0,07%
Bạc New York
USD/ounce
20,85
20,37
-0,05
-0,22%

Bạc TOCOM

JPY/g
68,00
67,00
-0,90
-1,33%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

1.477,56
1.470,00
+1,94
+0,13%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

869,75
870,75
+0,25
+0,03%

Đồng New York

US cent/lb

323,35
325,70
-0,95
-0,29%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn
7.045,00
7.169,50
+124,50
+1,77%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn
2.016,00
2.026,00
+10,00
+0,50%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn
2.365,00
2.388,00
+23,00
+0,97%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn
22.225,00
22.390,00
+165,00
+0,74%
Ngô

US cent/bushel

369,75
369,50
-1,25
-0,34%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

530,75
528,75
-2,00
-0,38%

Lúa mạch

US cent/bushel

321,50
326,00
+1,75
+0,54%

Gạo thô

USD/cwt
13,15
13,09
-0,04
-0,27%

Đậu tương

US cent/bushel

1.079,75
1.084,75
+8,25
+0,77%

Khô đậu tương

USD/tấn
348,30
350,00
+2,70
+0,78%

Dầu đậu tương

US cent/lb

36,39
36,35
0,00
0,00%

Hạt cải WCE

CAD/tấn
439,40
440,70
+2,70
+0,62%

Cacao Mỹ

USD/tấn
3.185,00
3.198,00
+13,00
+0,41%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

176,60
178,30
+1,70
+0,96%

Đường thô

US cent/lb

16,96
17,05
+0,09
+0,53%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

152,50
149,80
-2,70
-1,77%

Bông

US cent/lb

67,85
66,05
-2,03
-2,98%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

-
-
-
-%

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

332,70
325,80
-7,60
-2,28%

Cao su TOCOM

JPY/kg
205,40
203,90
-1,10
-0,54%

Ethanol CME

USD/gallon
1,93
1,92
-0,01
-0,31%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg