menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa thế giới sáng 27/8: Ngũ cốc tăng do thời tiết khô, các hàng hóa khác giảm

09:27 27/08/2013

Các thị trường ngũ cốc Hoa Kỳ tăng giá mạnh trong phiên giao dịch đầu tuần, 26/8, với lúa mì kỳ hạn tăng hơn 3%, trong khi ngô và đậu tương mỗi loại tăng hơn 4% do thời tiết khô và nóng đe dọa giảm sản lượng nông sản. Các hàng hóa khác chỉ tăng nhẹ.
  
  

(VINANET) – Các thị trường ngũ cốc Hoa Kỳ tăng giá mạnh trong phiên giao dịch đầu tuần, 26/8, với lúa mì kỳ hạn tăng hơn 3%, trong khi ngô và đậu tương mỗi loại tăng hơn 4% do thời tiết khô và nóng đe dọa giảm sản lượng nông sản. Các hàng hóa khác chỉ tăng nhẹ.

Chỉ số 19 nguyên liệu Thomson Reuters-CRB tăng 0,7%, với nhiều thị trường tăng giá.

Các thị trường hàng hóa London đóng cửa nghỉ lễ ngân hàng.

Giá đồng giảm mạnh nhất trong phiên giao dịch vừa qua, do USD tăng giá và số liệu sản xuất Hoa Kỳ yếu ảnh hưởng tới triển vọng nhu cầu kim loại công nghiệp.

Giá dầu thô giảm do số đơn đặt hàng hóa lâu bền Mỹ giảm mạnh hơn dự báo trong khi Libya hoạt động trở lại các cảng đã đóng cửa trước đó.

Trên sàn Nymex, giá dầu thô WTI giao tháng 10 giảm nhẹ 50 cent, tương đương 0,5%, chốt phiên tại 105,92 USD/thùng. Khối lượng giao dịch chỉ bằng 1/2 trung bình 100 ngày qua. Từ đầu năm đến nay, giá dầu thô đã tăng 15%.

Trên sàn ICE, giá dầu Brent giao tháng 10 giảm 31 cent, hay 0,3% xuống còn 110,73 USD/thùng, sau khi có lúc giao dịch ở mức cao 111,68 USD, cao nhất kể từ 2/4.

Khối lượng giao dịch thấp hơn 62% so với trung bình 100 ngày, bị giới hạn bởi Quốc lễ của nước Anh.

Bộ Thương mại Mỹ cho biết số lượng đặt hàng cho hàng hóa lâu bền tức là thời gian sử dụng ít nhất 3 năm giảm 7,3%, giảm mạnh nhất từ tháng 8/2012, trong khi dự báo các chuyên gia trước đó là giảm 4%. Số lượng đặt hàng không tính các phương tiện vận chuyển giảm 0,6%. Điều này cho thấy, công nghiệp Mỹ phục hồi yếu kéo giá dầu xuống thấp.

Ngoài ra, việc tăng cung từ Libya cũng làm giảm giá dầu. Xuất khẩu dầu nước này hoạt động trở lại từ cảnh Brega, một trong 4 cảng bị đóng cửa hôm 18/8. Cảng này góp phần tăng vận chuyển 90.000 thùng dầu/ngày trong tổng số 500.000 thùng dầu/ngày Libya cung cấp cho thị trường thế giới.

Sự thiếu chắc chắn về chính sách tiền tệ của Mỹ và triển vọng tăng trưởng kinh tế của nước này đẩy giá vàng tăng, mặc dù mức tăng vừa phải. Vàng đã phá ngưỡng 1.400 USD/ounce lần đầu tiên kể từ ngày 7/6.

Giá vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.400,61 USD/ounce.Vàng kỳ hạn tháng 12 giá giảm 2,7 USD xuống 1.393,10 USD/ounce.

Trên sàn Kitco, lúc 6h15 sáng nay, giá vàng giao ngay đứng tại 1.401,2 USD/oz, cao hơn 2 ,4 USD/oz so với kết thúc phiên trước, tuy nhiên vẫn giảm so với mốc cao kỷ lục 2 tháng là 1.406,1 USD/oz.

Trong năm nay, giá vàng giảm 17% trong khi đồng bạc xanh tăng 4,2% trong lúc nhà đầu tư lo ngại Cục dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ sớm cắt giảm quy mô nới lỏng tiền tệ.

Biên bản họp Fed tháng 7 vừa công bố ngày 21/8 cho thấy các nhà hoạch định chính sách đồng thuận với kế hoạch của chủ tịch Fed Ben Bernake giảm kích thích kinh tế năm nay nếu nền kinh tế mạnh hơn. Giá vàng đã tăng 70% từ tháng 12/2008 đến tháng 6/2011 khi Ngân hàng trung ương Mỹ bơm thêm 2 nghìn tỷ USD vào hệ thống tài chính để mua trái phiếu, các nhà đầu tư lo ngại USD mất giá và lạm phát gia tăng. Đến nay Fed có ý định giảm kích thích kinh tế giá vàng giảm trở lại.

Kết thúc phiên giao dịch chiều qua, giá cao su giao tháng 1 trên sàn Tocom (Tokyo) tăng 7,6 yên, tương đương 2,8% lên 277 yên/kg.

Giá đã tăng 22% từ mức thấp nhất trong năm 227,2 yên/kg đạt được hôm 22/6. Giá cao su Tocom rơi vào chuỗi giảm giá từ ngày 1/4 và chính thức bước vào thị trường giá lên trong một vài phiên gần đây, khi yên suy yếu và dấu hiệu cho thấy kinh tế của Trung Quốc đang lấy lại sức mạnh, thúc đẩy nhu cầu đối với hàng hóa được sử dụng trong lốp xe.

Sản xuất Trung Quốc mở rộng trong tháng này sau khi giảm nhiều nhất gần một năm trong tháng 7. Trong khi đó, sản lượng từ các nhà máy châu Âu và các công ty dịch vụ cũng được cải thiện.

Trung Quốc chiếm 33% nhu cầu cao su tự nhiên toàn cầu và sản xuất lốp xe chiếm 70% tiêu thụ tự nhiên cao su trong nước, theo ước tính của Sàn giao dịch Cao su quốc tế Thanh Đảo. Trung Quốc và châu Âu là những nước tiêu thụ lớn nhất, theo Nhóm nghiên cứu cao su quốc tế.

Trên thị trường nông sản Mỹ, giá đậu tương vụ mới tăng lên mức cao kỷ lục 11 tháng, trong khi giá ngô cao nhất 1 tháng do thời tiết nóng và khô đe dọa giảm sản lượng.

Lúa mì tăng lên mức cao kỷ lục 3 tuần, được thúc đẩy bởi sự lo ngại rằng thời tiết lạnh ở Argentina sẽ làm giảm sản lượng nông sản của quốc gia này.

Trên thị trường cà phê, cà phê arabica tại NewYork tiếp tục có phiên tăng nhẹ thứ 2 liên tiếp do ảnh hưởng từ thông tin tồn kho robusta theo dõi bởi sàn London giảm mạnh. Hợp đồng giao tháng 9 tăng 0,88% lên 114,5 cent/pound. Giá giao tháng 12 tăng 0,6% lên 117,75 cent/pound. Các kỳ hạn khác giá tăng trên 0,5%.

Trên sàn Liffe tại London, giá robusta kỳ hạn giao dịch sôi động nhất đã giảm 7,9% trong năm nay. Phiên vừa qua, thị trường cà phê robusta tại London đóng cửa nghỉ lễ.

Kho dự trữ cà phê robusta có thể sẽ giảm xuống mức thấp nhất 13 năm do mưa xối xả ở Indonesia làm gián đoạn nguồn cung, trong khi phải tầm 3 tháng nữa mới có nguồn cung từ vụ mới ở Việt Nam. 

Giá cà phê robusta giao tại cảng TPCHM giá FOB không đổi ở 1.782 USD/tấn.

Việc giá cà phê trong nước tiếp tục giảm trong khi còn tới gần 2 tháng nữa mới đến vụ thu hoạch mới là trái ngược so với xu hướng thông thường. So với mức giá 42 triệu đồng cùng kỳ năm trước, giá cà phê Tây Nguyên đã giảm tới 4,4 triệu đồng/tấn, tương đương 10,5%. Giá cà phê robusta giao tại cảng TPHCM cũng giảm tới 12,4% so với cùng kỳ năm trước.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/-(%)

So với đầu năm (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

106,12

-0,30

-0,3%

 15,6%

Dầu thô Brent

 USD/thùng

 110,77

-0,27

-0,2%

 -0,3%

Khí thiên nhiên

 USD/gallon

 3,513

0,028

 0,8%

4,8%

Vàng giao ngay

 USD/ounce

 1393,00

-2,70

-0,2%

-16,9%

Vàng Mỹ

 USD/ounce

 1397,36

 0,92

 0,1%

-16,5%

Đồng Mỹ

US cent/lb

3,32

-0,03

-0,9%

 -9,0%

Đồng LME

USD/tấn

7360,00

40,00

 0,5%

 -7,2%

Dollar

 

81,405

0,043

 0,1%

6,0%

 CRB

 

292,874

2,080

 0,7%

 -0,7%

Ngô Mỹ

 US cent/bushel

 515,75

20,25

 4,1%

-26,1%

Đậu tương Mỹ

 US cent/bushel

1427,75

62,50

 4,6%

0,6%

Lúa mì Mỹ

US cent/bushel

 654,75

20,25

 3,2%

-15,8%

Cà phê arabica

 US cent/lb

114,05

 1,00

 0,9%

-20,7%

Cacao Mỹ

USD/tấn

 2447,00

20,00

 0,8%

9,4%

Đường thô

US cent/lb

 16,61

 0,14

 0,9%

-14,9%

Bạc Mỹ

 USD/ounce

24,010

 23,773

 1,7%

-20,6%

Bạch kim Mỹ

USD/ounce

 1544,50

 2,90

 0,0%

0,4%

Palladium Mỹ

USD/ounce

746,05

-4,80

-0,6%

6,1%

(T.H – Reuters)