menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa thế giới tuần 30/9-5/10: Vàng giảm, dầu và đồng tăng

21:15 06/10/2013

Phiên giao dịch cuối cùng của tuần qua, 4/10 (kết thúc vào rạng sáng 5/10 giờ VN), giá hàng hóa biến động trái chiều, với đồng tăng 1% mang tính kỹ thuật và vàng giảm bởi USD tăng giá, mặc dù lo ngại rằng sự bất đồng sâu sắc giữa các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ có thể còn lâu mới được giải quyết.

 (VINANET) – Phiên giao dịch cuối cùng của tuần qua, 4/10 (kết thúc vào rạng sáng 5/10 giờ VN), giá hàng hóa biến động trái chiều, với đồng tăng 1% mang tính kỹ thuật và vàng giảm bởi USD tăng giá, mặc dù lo ngại rằng sự bất đồng sâu sắc giữa các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ có thể còn lâu mới được giải quyết.

Giá dầu tăng do cơn bão nhiệt đới Karen đổ bộ vào vùng Vịnh Mexico khiến sản xuất ở đây phải tạm dừng một nửa, song khủng hoảng chính trị Mỹ gây lo ngại về nhu cầu ở nước tiêu thụ dầu lớn nhất thế giới làm hạn chế đà tăng.

Chính phủ Mỹ đã đóng cửa 5 ngày và gần 1 triệu nhân viên chính phủ vẫn phải nghỉ làm.

Một số cơ quan và chương trình của liên bang cũng đang phải dừng hoạt động. Bộ Lao động Mỹ tạm hoãn công bố số liệu về số đơn xin trợ cấp thất nghiệp Mỹ - lẽ ra công bố vào ngày 4/9. Ủy ban Giao dịch Hàng hóa Kỳ hạn cũng không công bố báo cáo hàng tuần.

Chỉ số giá hàng hóa Thomson Reuters-Jefferies CRB phiên cuối tuần tăng 0,3% khi 13 trong số 19 hàng hóa tính chỉ số tăng giá. Nhưng tính chung trong tuần CRB đã giảm giá tuần thứ 4 liên tiếp.

Phiên cuối tuần đồng tăng 1%, nickel tăng 4% và thiếc tăng 5,5% trong bối cảnh khối lượng giao dịch không nhiều bởi nước tiêu thụ kim loại lớn nhất là Trung Quốc vẫn đang trong kỳ nghỉ lễ Quốc khánh một tuần.

Vàng giảm khoảng 0,5% nhưng bạch kim tăng hơn 1,5% do lo ngại sản lượng ở mỏ sản xuất hàng đầu ở Nam Phi có thể bị giảm do công nhân đang đe dọa đình công.

Vàng

Trên sàn Comex phiên cuối tuần, giá vàng giao tháng 12 giảm 0,6% chốt tuần tại 1.309,9 USD/oz. Như vậy, giá vàng giao kỳ hạn tuần qua giảm 2,2%, từ đầu năm đến nay giảm tổng cộng 22% trong khi thị trường chứng khoán tăng vọt và lạm pháp duy trì mức thấp.

Trên sàn Kitco, giá vàng giao ngay đứng tại 1.311,2 USD/oz, thấp hơn đóng cửa phiên trước 5,5 USD/oz.

Phil Streible, nhà môi giới hàng hóa cấp cao tại Chicago cho biết: "Tiền bạc hình như đang đổ vào chứng khoán. Vàng không còn hấp dẫn với vai trò trú ẩn an toàn.

Việc chính phủ Mỹ đóng cửa sang tuần tới được nhiều nhà quan sát cho là sẽ hỗ trợ cho giá vàng tuần tới.

Nếu Quốc hội Mỹ vẫn chưa đạt được thỏa thuận về ngân sách vào cuối tuần này, thị trường vàng tuần tới sẽ tiếp tục dồn sự chú ý vào tình trạng đóng cửa của chính phủ Mỹ. Ngoài ra, biên bản cuộc họp mới đây nhất của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) dự kiến được công bố vào tuần tới cũng là thông tin mà giới đầu tư quan tâm.

Dầu

Giá dầu vừa tăng tuần đầu tiên trong vòng 3 tuần. Cơn bão nhiệt đới Karen tăng cường thông qua Vịnh Mexico đến bờ biển Mỹ, đe dọa sản lượng dầu thô khu vực này kéo giá dầu WTI tăng.

Trên sàn Nymex, giá dầu thô WTI giao tháng 11 tăng 53 cent, hay 0,5% chốt phiên cuối tuần tại 103,84 USD/thùng. Khối lượng giao dịch thấp hơn 39% so với trung bình 100 ngày. Giá dầu WTI tăng 0,9% trong tuần qua và tăng 13% kể từ đầu năm đến nay.

Giá dầu Brent giao kỳ hạn tháng 11 tại sàn ICE tăng 46 cent, tương đường 0,4%, chốt phiên tại 109,46 ÚD/thùng. Khối lượng giao dịch thấp hơn 29% so với trung bình 100 ngày. Chênh lệch giá dầu Brent, tiêu chuẩn châu Âu với dầu WTI là 5,62 USD/thùng.

Cà phê, cacao

Trên sàn ICE tại NewYork, giá cà phê arabica quay đầu giảm. Kỳ hạn giao tháng 12 giá giảm 0,82% xuống 114,4 cent/poud. Kỳ hạn giao tháng 3 giá giảm 0,8% xuống 117,55 cent/lb. Các kỳ hạn khác giá giảm trên 0,7%.

Giá cà phê robusta tiếp tục tăng phiên thứ 3 liên tiếp và hướng đến tuần tăng mạnh nhất trong hơn 1 năm do dự trữ cà phê tại các kho theo dõi bởi sàn Liffe giảm tới 19% trong 2 tuần tính đến 30/9.

Kỳ hạn giao tháng 11 giá tăng 6 USD, tương đương 0,35% lên 1.709 USD/tấn. Giá giao tháng 1 tăng 12 USD, tương đương 0,7% lên 1.705 USD/tấn. Các kỳ hạn khác giá tăng trên 0,2%. Giá robusta tăng 7,2% trong tuần qua, là mức tăng hàng tuần lớn nhất kể từ ngày 10/2/2012.

Tồn kho cà phê có giấy chứng nhận phân loại hợp lệ của sàn Liffe đã giảm xuống 60.380 tấn vào ngày 30/9 từ 74.890 tấn hai tuần trước đó. Các kho dự trữ sẽ giảm xuống 52.000 tấn vào cuối năm, mức thấp nhất kể từ tháng 5/2000, theo ước tính trung bình của 10 nhà kinh doanh do Bloomberg khảo sát trong tháng 8.

Giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên không đổi ở 35,9-36,6 triệu đồng/tấn dù giá cà phê trên sàn Liffe tại London đêm qua tăng. Giá cà phê robusta giao tại cảng giá FOB tuy nhiên tăng 6 USD lên 1.729 USD/tấn theo giá cà phê trên sàn Liffe tại London.

Giá cacao tăng do lo ngại sản lượng ở các nước sản xuất chủ chốt là Bờ Biển Ngà và Ghân bị ảnh hưởng.

Ngũ cốc

Mưa làm chậm lại vụ thu hoạch đã nâng giá ngô và đậu tương kỳ hạn tăng, trong khi vụ mùa của Canada cao kỷ lục ảnh hưởng tới giá lúa mì.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa
ĐVT
Giá
+/-
+/- (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
103,84
+0,53
+0,51%
Dầu Brent
USD/thùng
109,46
+0,46
+0,42%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
62.710,00
+600,00
+0,97%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
3,51
+0,01
+0,20%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
260,76
-3,20
-1,21%
Dầu đốt
US cent/gallon
299,90
-0,43
-0,14%
Dầu khí
USD/tấn
921,50
-3,25
-0,35%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
75.010,00
+460,00
+0,62%
Vàng New York
USD/ounce
1.309,90
-7,70
-0,58%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.109,00
-15,00
-0,36%
Bạc New York
USD/ounce
21,75
-0,03
-0,16%
Bạc TOCOM
JPY/g
68,30
+0,30
+0,44%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz.
1.388,06
+15,70
+1,14%
Palladium giao ngay
USD/t oz.
698,90
-3,02
-0,43%
Đồng New York
US cent/lb
330,10
+3,25
+0,99%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
7.260,00
+75,00
+1,04%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.844,00
+17,00
+0,93%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
1.872,50
+4,50
+0,24%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
24.000,00
+1.250,00
+5,49%
Ngô
US cent/bushel
443,25
+4,00
+0,91%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
687,00
-2,25
-0,33%
Lúa mạch
US cent/bushel
318,25
+1,25
+0,39%
Gạo thô
USD/cwt
14,87
-0,03
-0,20%
Đậu tương
US cent/bushel
1.295,00
+6,75
+0,52%
Khô đậu tương
USD/tấn
418,40
+3,10
+0,75%
Dầu đậu tương
US cent/lb
40,24
-0,03
-0,07%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
477,60
-6,60
-1,36%
Cacao Mỹ
USD/tấn
2.611,00
+26,00
+1,01%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
114,40
-0,95
-0,82%
Đường thô
US cent/lb
18,48
-0,04
-0,22%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
128,20
+2,35
+1,87%
Bông
US cent/lb
87,18
-0,26
-0,30%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
1.037,00
0,00
0,00%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
336,80
+2,00
+0,60%
Cao su TOCOM
JPY/kg
256,20
+1,90
+0,75%
Ethanol CME
USD/gallon
1,61
0,00
+0,19%
 (T.H – Reuters, Blomberg)