Sản lượng đồng tinh chế của Trung Quốc tăng 7,9% trong hai tháng năm 2011 so với cùng kỳ năm trước và các nhà phân tích cho biết sản lượng sẽ tăng trong tháng ba sau kỳ nghỉ tết vào tháng hai.
Sản lượng đồng tăng ở Trung Quốc, trong khi lượng đồng dự trữ vẫn ở mức cao, có thể gây ra nguồn cung trong nước tăng và giảm nhu cầu nhập khẩu.
Nhà phân tích Fu Bin cho biết sản xuất đồng có thế tăng trong tháng ba khi nguồn nguyên liệu thô tương đối đầy đủ.
Ví như đồng, việc điều chỉnh theo mùa giảm sản lượng hàng tháng cho hầu hết các kim loại cơ bản trong giai đoạn tháng 1-2, nhưng tổng kết lại sản lượng vẫn tăng trong năm bởi vì năng xuất tăng tại Trung Quốc, nước sản xuất và tiêu thụ lớn nhất của hầu hết các kim loại.
Số liệu từ Văn phòng Thống kê Quốc gia cho biết, trong hai tháng đầu năm 2011, sản lượng đồng tinh chế của Trung Quốc tăng đạt 795 nghìn tấn, thậm chí sản lượng tháng hai giảm 5,6%.
Sản lượng đồng giảm xuống còn 386 nghìn tấn trong tháng hai, thấp nhất trong 10 tháng, giảm 7,9% trong tháng giêng so với mức cao kỷ lục 444 nghìn tấn trong tháng 12/2010.
Sản lượng tháng hai tăng 3,8% so với cùng tháng năm trước, mặc dù các nhà máy luyện kim nhỏ hơn cắt giảm hoặc ngừng hoạt động vào ngày lễ.
Các nhà sản xuất đồng lớn như Jiangxi Copper giữ nguyên mức cao như tháng trước, sản lượng giảm bớt trong tháng giêng sau khi các nhà máy luyện đẩy mạnh sản xuất để đạt mục tiêu năm 2010 trong tháng 12.
Niken, chì, thiếc tăng đột biến
Sản lượng niken tinh chế tăng 46,5% so với năm trước, đạt 38,886 nghìn tấn trong hai tháng đầu năm nay, ngay cả khi sản lượng tháng hai đã giảm 23,4% xuống 16,871 tấn so với mức kỷ lục 22,015 nghìn tấn của tháng giêng. Tháng hai sản lượng niken tăng 31,1% so với cùng tháng năm trước.
Chì tinh chế tăng 30,2% so với năm trước đạt 574 nghìn tấn trong hai tháng 1-2. Sản lượng chì trong tháng hai tăng 1,4% so với tháng trước đó và 40,3% so với năm trước đạt 289 nghìn tấn trong tháng hai.
Sản lượng đạt 285 nghìn tấn của tháng giêng giảm 33,7% so với tháng 12/2010 và thấp nhiều so với mức kỷ lục 448 nghìn tấn đạt được vào tháng 11 năm trước.
Giảm cung cấp điện kết hợp với thời tiết lạnh giá buộc nhiều nhà máy luyện trong nhóm sản xuất chì hàng đầu của tỉnh Hà Nam cắt giảm sản xuất trong tháng giêng và hầu hết các nhà máy khởi động lại công suất vào tháng trước.
Thiếc cũng tăng 21,6% đạt 24,496 nghìn tấn trong hai tháng đầu năm 2011. Sản lượng trong tháng hai đứng ở mức 12,025 nghìn tấn giảm 3,6% so với tháng giêng nhưng tăng 21,3% so với tháng 2/2010.
Nhôm, kẽm giảm
Sản lượng nhôm còn 2,6 triệu tấn trong hai tháng đầu năm 2011, giảm xuống 1,6% so với cùng kỳ năm trước.
Sản lượng nhôm tháng hai tăng 0,5% so với tháng trước, đạt 1,31 triệu tấn, tăng thêm 7% so với cuối năm 2010 do một số nhà máy khởi động lại công suất nhàn rỗi.
Hầu hết các nhà máy đứng đầu về sản xuất nhôm ở tỉnh Hà Nam đã khởi động lại công suất nhàn rỗi hoặc chuẩn bị để khởi động hết công suất sau khi nguồn cung cấp điện tăng cường vào tháng trước
Sản lượng nhôm hàng tháng tiếp tục tăng trong tháng ba, trừ khi giá giảm mạnh vì làm thế không khuyến khích các nhà máy khởi động lại công suất.
Kẽm giảm 12,7% so với năm trước đạt 799 nghìn tấn trong hai tháng năm 2011. Sản lượng trong tháng hai giảm 1,2% trong tháng trước, đạt 397 nghìn tấn, tăng 9,7% so với tháng 2/2010.
Sản lượng kẽm hàng tháng đứng ở mức thấp sau khi đạt kỷ lục 505 nghìn tấn vào tháng 9 năm trước do Shenzhen Zhongjin Lingnan Nonfemet, nhà sản xuất thép lớn thứ ba của Trung Quốc đóng cửa nhà máy luyện chính cuối tháng 10 để tuân thủ điều tra ô nhiễm.
Nhà máy luyện kẽm 200 nghìn tấn một năm ở Hà Nam cũng cắt giảm sản xuất trong tháng giêng do nguồn cung cấp điện giảm.
Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc phát hành số liệu về sản lượng kim loại cơ bản cho tháng trước
Bảng sau đưa ra con số về sản lượng đồng tinh chế, nhôm nguyên khai, alumin, kẽm tinh chế, chì tinh chế, thiếc tinh chế, niken, magiê và quặng
|
Tháng 2/2011
(tấn)
|
% tăng giảm T2/2011 so với T2/2010
|
Tháng 1
(tấn)
|
% tăng giảm T2/2011 so với T1/2011
|
Cộng dồn tháng 1-2/2011
(tấn)
|
% tăng giảm so với cùng kỳ năm trước
|
Đồng tinh chế
|
386.000
|
3,8
|
409.000
|
-5,6
|
795.000
|
7,9
|
Nhôm
|
1.305.000
|
-0,5
|
1.298.000
|
0.5
|
2.603.000
|
-1,6
|
Kẽm
|
397,000
|
9.7
|
402,000
|
-1.2
|
799,000
|
-12.7
|
Chì
|
289,000
|
40.3
|
285,000
|
1.4
|
574,000
|
30.2
|
Niken
|
16,871
|
31.1
|
22,015
|
-23.4
|
38,886
|
46.5
|
Thiếc
|
12,025
|
21.3
|
12,471
|
-3.6
|
24,496
|
21.6
|
Magiê
|
57.000
|
18.8
|
48,000
|
18.8
|
105,000
|
16.7
|
Titan
|
6.000
|
20.0
|
7.000
|
-14,3
|
13.000
|
62,5
|
Thuỷ ngân
|
128
|
541,0
|
167
|
-23,0
|
295
|
105,9
|
Dạng quặng
Đồng
|
88.000
|
2,3
|
86.000
|
2,3
|
174.000
|
8,1
|
Alumina
|
2.619.000
|
11,5
|
2.650.000
|
-1,2
|
5.269.000
|
8,8
|
Kẽm
|
189.000
|
-0,5
|
220.000
|
-14,1
|
409.000
|
-0,7
|
Chì
|
108.000
|
24,1
|
127.000
|
-15,0
|
235.000
|
19,3
|
Thiếc
|
5.000
|
66,7
|
8.000
|
-37,5
|
13.000
|
62,5
|
Tungsten
|
6.512
|
37,7
|
7.066
|
-7,8
|
13.578
|
26,6
|
Antimony
|
4.000
|
-50,0
|
5.000
|
-20,0
|
9.000
|
-52,6
|
Molybdenum
|
16.445
|
13,0
|
15.549
|
5,8
|
31.994
|
18,7
|
Các sản phẩm, bán thành phẩm và hợp kim
Đồng bán thành phẩm
|
603.000
|
19,2
|
702.000
|
-14,1
|
1.305.000
|
15,2
|
Nhôm bán thành phẩm
|
1.848.000
|
53,4
|
2.034.000
|
-9,1
|
3.882.000
|
44,5
|
Hợp kim nhôm
|
277.000
|
45,8
|
278.000
|
-0,4
|
555.000
|
38,8
|
Dây cáp điện
|
1.813.000
|
21,5
|
2.184.000
|
-17,0
|
3.997.000
|
24,8
|
Theo Reuters