menu search
Đóng menu
Đóng

Thị trường hàng hóa trong nước tuần từ 19-24/12/2011

11:27 26/12/2011

VINANET - Gạo: Tiếp đà giảm từ 3 tuần trước, tuần này giá lúa gạo tại các tỉnh ĐSCL tiếp tục xu hướng đi xuống các vùng thấp; Thực phẩm: Tại các tỉnh phía Bắc, giá lợn hơi thường phổ biến ở mức 48-50.000 đ/kg, lợn hơi siêu nạc ở mức 52-55.000 đ/kg; thịt lợn mông ở mức 95.000 – 105.000 đ/kg; thịt bò đùi ở mức 170-180.000 đ/kg; thịt gà ta ở mức 125-130.000 đ/kg.
    
    

 

 

Gạo

 

Tiếp đà giảm từ 3 tuần trước, tuần này giá lúa gạo tại các tỉnh ĐSCL tiếp tục xu hướng đi xuống các vùng thấp.

 

Cụ thể, tại ĐBSCL, giá lúa khô hạt dài (lúa loại I) giảm nhẹ từ mức 6.200- 6.300 đ/kg xuống còn 6.050-6.150 đ/kg, lúa thường (loại II) từ mức 6.000 – 6.100 đ/kg xuống còn 5.950 – 6.050 đ/kg.

 

Giá gạo nguyên liệu loại I làm ra gạo 5% tấm giảm từ mức 8.100 – 8.250 đ/kg xuống còn 8.000 – 8.100 đ/kg, loại II làm ra gạo 25% tấm từ mức 7.900 – 8.000 đ/kg xuống còn 7.700 – 7.800 đ/kg.

 

Hiệp hội lương thực Việt Nam cho biết tính đến ngày 20/12/2011, đã có 146 doanh nghiệp trong nước được cấp Giấy Chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo. Ngoài ra, trước đó cũng cấp phép cho 4 doanh nghiệp FDI. Như vậy, hiện cả nước có 150 doanh nghiệp được cấp Giấy Chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo.

 

Kể từ ngày 22/12, giá sàn xuất khẩu gạo loại 5% tấm được tăng thêm 10 USD, lên 500 USD/tấn, giá sàn xuất khẩu gạo loại 25% tấm vẫn được giữ nguyên. Đây là lần thứ 8 VFA điều chỉnh giá sàn xuất khẩu gạo kể từ đầu năm đến nay.

 

Tham khảo giá lúa gạo tuần qua

 

Giá lúa

 

Lúa loại I

Từ 6.060 đ/kg đến 6.150 đ/kg

Lúa loại II

Từ 5.950 đ/kg đến 6.050 đ/kg

Giá gạo nguyên liệu xô

 

Gạo loại I

Từ 8.000 đ/kg đến 8.100 đ/kg

Gạo loại II

Từ 7.700 đ/kg đến 7.800 đ/kg

Giá gạo xuất cặp mạn tàu Tp.HCM

 

Gạo 5%

Từ 9.400 đ/kg đến 9.500 đ/kg

Gạo 15%

Từ 8.800 đ/kg đến 8.900 đ/kg

Gạo 25%

Từ 8.400 đ/kg đến 8.500 đ/kg

Giá theo chất lượng hàng hóa của từng địa phương

 

Thực phẩm

 

Tại các tỉnh phía Bắc, giá lợn hơi thường phổ biến ở mức 48-50.000 đ/kg, lợn hơi siêu nạc ở mức 52-55.000 đ/kg; thịt lợn mông ở mức 95.000 – 105.000 đ/kg; thịt bò đùi ở mức 170-180.000 đ/kg; thịt gà ta ở mức 125-130.000 đ/kg.

 

Tại các tỉnh phía Nam, như ở Kiên Giang giá thực phẩm tăng. Cụ thể, gà ta sống tăng 7.000 đ lên 90.000 đ/kg; giá thịt bò tăng 10.000 đ lên 180.000 đ/dkg.

 

Tại An Giang gà ta sống, cá thu, giò lụa tăng 2.000 – 5.000 đ/kg.

 

Tại Tp.HCM giá thịt lợn hơi tăng nhẹ và ở mức 50.000 – 52.500 đ/kg. Giá bán lẻ thịt lợn và các mặt hàng thực phẩm khác nhìn chung ổn định.

 

Thủy sản

 

Doanh nghiệp thủy sản đang gặp khó khăn vì chi phí kiểm định chất lượng cao. Mặc dù kiểm tra gắt gao nhưng thực tế sau đó vẫn có những lô hàng gặp vấn đề về chất lượng, bị khách hàng trả lại, gây thiệt hại cho doanh nghiệp.

 

Trong tuần, giá thủy sản tại Tp.Hồ Chí Minh tăng 1.000 – 25.000 đ/kg (tăng 4%-5%). Lượng thủy hải sản tươi về chợ đầu mối Bình Điền bình quân 793 tấn/ngày, tăng 38 tấn/ngày (tăng 5%) so với tuần trước. Đối với các thủy hải sản khô bình quân về chợ 6 tấn/ngày, xấp xỉ lượng hàng tuần trước. Giá đứng riêng tôm khô các loại giá tăng 50.000 – 100.000dd/kg (8%-23%) do gần Tết và hút hàng.

 

Tại các tỉnh ĐBSCL, giá cá tra ở mức 25-26.000 đ/kg; riêng tại Bến Tre giá cá tra ở mức 32.000 đ/kg.

 

Giá thủy sản tại một số thị trường trong tuần

 

ĐVT: đ/kg

 

 

Tiền Giang

Cà Mau

Bến Tre

Cá tra

 

 

32.000

Cá lóc

 

70.000

40.000

Cá ba sa

28.000

 

 

Tôm sú loại 40 con/kg

100.000

152.000

 

Tôm càng loại 1

160.000

 

 

Tôm khô L2

250.000

 

 

 

Cao su

 

Giá cao su SVR 3L tại cửa khẩu Móng Cái – Đông Kinh tiếp tục được chào bán quanh mức 21.500 NDT/tấn. Thị trường biên giới vẫn tiếp tục bị đóng cửa. Có tin nói rằng Trung Quốc sẽ mở cửa thị trường biên giới trở lại từ sau ngày mồng 8 tháng Giêng năm Nhâm Thìn.

 

Giá cao su SVR nhìn chung tăng trong cả tuần. Mặc dù ngay trong ngày giao dịch đầu tuần đã có diễn biến trái chiều: tăng giá với cao su SVR CV và SVRL; giảm giá với cao su SVR 10 và SVR 20 tuy nhiên các ngày sau đó giá cao su hầu như tăng, ngoại trừ phiên giảm nhẹ của cao su SVRCV và SVRL vào ngày 20/12. Trong cả tuần mức tăng của cao su SVR 10 và SVR 20 khoảng 2400 đồng/kg, vẫn cao hơn mức tăng 1400-1800 đồng/kg của cao su SVR CV và SVRL.

 

Đóng cửa phiên 21/12, giá cao su SVR CV và SVR L mua vào lần lượt ở mức giá 72.900 đồng/kg và 71.300 đồng/kg; giá cao su bán ra hai loại trên cũng lần lượt là 73.600 đồng/kg và 72.100 đồng/kg. Trong khi đó giá bán ra với cao su SVR10 và SVR 20 lần lượt là 69.500 đồng/kg và 69.400 đồng/kg; cao hơn giá mua vào 700 đồng/kg

 

Trung bình tuần giá mủ cao su tại Đồng Nai đứng ở mức 21.000 đồng/kg của với tuần trước. Giá mủ nước cao su tại Bình Phước giảm 53 đồng/kg xuống 20.640 đồng/kg; mủ nước cao su tại Đồng Nai giảm 4.000 đồng/kg xuống mức 13.000 đồng/kg.

 

Cà phê

 

Giá cà phê nhân xô thu mua trong nước và cà phê chào bán xuất khẩu đến cuối tuần qua tiếp tục ít thay đổi so với một tuần trước đó.

 

Giá cà phê nhân xô tại Tây nguyên đạt mức cao nhất tuần ở 39.100-39.500 đồng/kg.

 

Giá cà phê Robusta xuất khẩu loại 2, 5% đen vỡ, là 1.855 USD/tấn, FOB, mức trừ lùi 30 USD so với giá giao tháng 3 tại London.

 

Giá cà phê nhân xô trong nước lui về mức 38.400-38.800 đồng/kg, là mức thấp nhất tuần này. Giá cà phê nhân xô đã hạ 500 đồng/kg, so với mức giá cuối tuần trước, xuống tương đương với mức giá của 30 ngày trước.

 

Yếu tố hỗ trợ tiềm năng của thị trường hiện nay có lẽ là nhu cầu thu mua của phía Indonesia, nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai ở châu Á. Theo các nhà giao dịch, Indonesia sẽ tăng 50% lượng cà phê mua của việt Nam trong giai đoạn từ nay đến tháng 2 năm tới, với khoảng trên 35.000 tấn, để đáp ứng nhu cầu của nhà rang xay nội địa.

 

Sản lượng của Indonesia vụ này dự kiến chỉ đạt 525.000 tấn, giảm 20% so với vụ trước do mưa quá nhiều. Ở Việt Nam dự đoán sản lượng sẽ tăng 10% lên 1,2 triệu tấn. Giá cà phê Việt Nam rẻ trong khi cung dồi dào đã thu hút nhà rang xay Indonesia và các khách hàng ở châu Âu.

 

Hóa chất phân bón

 

Tuần qua, giá phân bón tại các tỉnh ĐBSCL tăng, giảm tùy theo từng thị trường và chủng loại.Cụ thể, tại Đồng Tháp phân ure giảm 200 đ còn 10.500 đ/kg; Tại Kiên giang phân ure tăng 200 đ lên 12.000 đ/kg, nhưng phân DAP giảm 700 đ còn 16.000 đ/kg.  Tại An Giang phân ure tăng 400 đ lên 10.600 đ/kg; DAP Philippin giảm 300 đ còn 17.200 đ/kg; Tại Đồng Nai phân DAP TQ hạt nâu tiếp tục giảm 200 đ còn 14.300 đ/kg, vài loại khác tăng, giảm không đáng kể.

 

Nguồn:Vinanet