menu search
Đóng menu
Đóng

Thị trường nông sản trong nước tuần đến ngày 22/9/2014

14:54 22/09/2014

Lúa gạo: giá ổn định đến giảm nhẹ; Cà phê: Giá giao động nhẹ trong tuần...

Lúa gạo: giá ổn định đến giảm nhẹ

Tuần qua, giá lúa gạo trong nước ổn định đến giảm nhẹ so với tuần trước đó. Cụ thể, tại ĐBSCL, giá lúa khô xuống nhẹ, trong đó lúa hạt dài (lúa loại I) từ mức 4.700 – 4.800 đ/kg xuống còn 4.700 – 4.750 đ/kg, lúa thường (loại II) từ mức 4.650 – 4.700đ/kg xuống còn 4.600 – 4.650 đ/kg.

Giá gạo nguyên liệu cùng xu hướng, với loại I làm ra gạo 5% tấm giảm từ mức 7450 – 7.500 đ/kg, xuống còn 7.350 – 7.400 đ/kg, loại II làm ra gạo 25% từ mức 7.400 – 7.450 đ/kg xuống còn 7.300 – 7.350 đ/kg.

Giá gạo thành phẩm xuất khẩu không bao bì tại mạn trong tuần qua ổn định. Cụ thể, giá gạo 5% tấm duy trì ở mức 9.100 – 9.200 đ/kg, gạo 15% tấm ở mức 8.700 – 8.800 đ/kg, gạo 25% tấm từ mức 8.100 – 8.200 đ/kg.

Giá gạo Việt Nam giảm sau khi Philippine đề nghị mua 200.000 tấn gạo Việt Nam, nguyên nhân được một số thương gia cho là bởi các nhà máy xay xát giảm giá trong bối cảnh nhu cầu lúa này thấp.

Gạo 5% tấm của Việt Nam giá chào 440-445 USD/tấn. Gạo 25% tấm giá chào bán cũng giảm xuống 400 – 405 USD/tấn.

Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), xuất khẩu gạo 8 tháng của cả nước đạt 4,23 triệu tấn, trị giá đạt 1,932 tỷ USD, giá xuất khẩu bình quân ở mức 431 USD/tấn. So với cùng kỳ năm ngoái, số lượng giảm 9,2%, trị giá giảm 7,2% nhưng giá bình quân lại tăng 2,9 USD/Tấn.

Riêng tháng 8/2014, xuất khẩu đạt 627.000 tấn, vượt kế hoạch đề ra là 650 ngàn tấn, cao hơn tháng 7 và cao hơn mức bình quân 8 tháng.

Cà phê: Giá giao động nhẹ trong tuần

Tuần qua, giá cà phê dao động nhẹ. Cụ thể, đến cuối tuần giá cà phê nhân xô tại thị trường Đắk Lắk, Lâm Đồng, Gia Lai, Đaknong giảm từ mức 38.000 – 39.200 đ/kg (tùy địa phương và chất lượng) xuống còn 37.600 – 38.900 đ/kg.

Giá cà phê xuất khẩu FOB Tp.HCM chào bán trong khi đó tăng từ mức 1.918 USD/tấn lên đạt 1.931 USD/tấn. Mức trừ lùi chính thức của giá cà phê xuất khẩu chào bán của nước ta so với hợp đồng kỳ hạn chính giao tháng 11/2014 trên sàn London tuần qua là -70 USD/tấn.

Hạt tiêu

Giá tiêu đen xô nội địa trong ngày 22/9 không đổi so với ngày hôm trước.

Giá tiêu tại Chư Sê (Gia Lai) 193.000 đ/kg; tiêu Châu Đức (Bà Rịa) giá 197.000 đ/kg; tại Đắk Lắk – Đắk Nông  193.000 đ/kg và Bình Phước 195.000 đ/kg.

Với dân số khoảng 1,7 tỷ người cùng thói quen sử dụng hạt tiêu trong các bữa ăn hàng ngày, Nam Á là khu vực đầy tiềm năng để phát triển mặt hàng tiêu Việt Nam.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu 7 tháng đầu năm 2014 của Việt Nam sang các nước khu vực Nam Á đạt 95,72 triệu USD, tăng gấp 2,5 lần so với mức 38,59 triệu USD cùng kỳ năm 2013. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu sang Ấn Độ đạt xấp xỉ 8.000 tấn, chiếm 58,7% tổng kim ngạch xuất khẩu tiêu của Việt Nam sang khu vực này. Sản lượng tiêu giảm dẫn đến giá tiêu trong nước tăng, khiến việc nhập khẩu tiêu nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nội địa của Ấn Độ tăng cao. Với tình hình xuất khẩu như hiện nay, dự báo tổng kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam sang các nước Nam Á sẽ đạt trên 160 triệu USD.

Cao su:

Giá cao su thành phẩm tại Đông Nam Bộ, Tây Nguyên ngày 22/9 giảm 300 – 600 đ/kg so với ngày 19/9. Tại Tây Ninh giá cao su đạt  36.500 đ/kg.

Theo Cục Chế biến Nông lâm thủy sản và Nghề muối, năm nay, sản lượng cao su xuất khẩu ước đạt 1 triệu tấn, với giá trị khoảng 1,8 đến 2 tỷ USD.

So với năm 2013, sản lượng cao su xuất khẩu giảm khoảng 10%, nhưng kim ngạch có thể giảm mạnh từ 25 đến 30%. Nguyên nhân là nhu cầu tiêu thụ trên thế giới vẫn tăng chậm, trong khi nguồn cung tăng nhanh do nhiều nước đã mở rộng diện tích cao su trong thời kỳ giá cao, cung vượt cầu, làm cao su có tồn dư từ cuối năm 2012 đã tạo áp lực giảm giá sâu trong những tháng đầu năm nay.

Dự báo, sản lượng cao su sản xuất trong nước năm nay đạt 980.000 tấn, tăng 3,2% so với năm ngoái. Do giá cao su vẫn ở mức thấp, gần sát với giá thành nên không khuyến khích người sản xuất thâm canh tăng sản lượng mà chỉ đầu tư tối thiểu để giảm giá thành.

Sau 8 tháng, xuất khẩu cao su đạt 548.000 tấn, với giá trị đạt 989 triệu USD, giảm 9,8% về khối lượng và giảm 31,9% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.

Mặc dù Trung Quốc và Malaysia vẫn duy trì là thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất của Việt Nam, nhưng lại có xu hướng giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2013. Cụ thể, Trung Quốc giảm 21% về khối lượng và giảm 40,25% về giá trị; Malaysia giảm 13,72% về khối lượng và giảm 40% về giá trị.

NG.Hương

Nguồn: Vinanet/thitruongvtic.vn, Agromonitor

Nguồn:Vinanet