Bảng giá hạt tiêu đen và hạt tiêu trắng hàng ngày
Loại hạt tiêu
|
Giá cả
(Đơn vị: USD/tấn)
|
Thay đổi
(%)
|
Tiêu đen Lampung - Indonesia
|
7.578
|
+0,24
|
Tiêu trắng Muntok - Indonesia
|
8.923
|
+0,25
|
Tiêu đen Brazil ASTA 570
|
7.500
|
-
|
Tiêu đen Kuching Malaysia ASTA
|
8.800
|
+3,41
|
Tiêu trắng Malaysia ASTA
|
10.900
|
+4,59
|
Tiêu đen loại 500 g/l Việt Nam
|
6.600
|
-
|
Tiêu đen loại 550 g/l Việt Nam
|
7.000
|
-
|
Tiêu trắng Việt Nam ASTA
|
9.300
|
-
|
Lưu ý: Các giá trên chỉ mang tính chất tham khảo, mức giá thực tế sẽ có sự chênh lệch theo từng địa phương, phương thức vận chuyển, phương thức thanh toán, khối lượng giao dịch… Quý độc giả vui lòng liên hệ đến các doanh nghiệp, đại lý kinh doanh hạt tiêu gần nhất để được tư vấn cụ thể.
Các thông tin nổi bật:
- Còn hơn 1 quý nữa là kết thúc năm, nhưng mốc xuất khẩu 1 tỷ USD ngành hàng hạt tiêu đặt ra nhiều năm nay chắc chắn sẽ đạt được ở năm 2024 này.
- Lượng hạt tiêu tồn của nước ta không còn nhiều nên những tháng cuối năm nay xuất khẩu mặt hàng này sẽ thấp hơn so với mọi năm và kéo dài cho đến khoảng tháng 3/2025 khi vào vụ thu hoạch mới. Do đó, giá mặt hàng này trên toàn cầu được dự báo tiếp tục tăng và neo ở mức cao cho đến khi Việt Nam bước vào vụ thu hoạch năm sau.
- Việt Nam là quốc gia xuất khẩu gia vị hàng đầu thế giới, với kim ngạch khoảng 1,5 tỷ USD mỗi năm. Gia vị của Việt Nam hiện đã được xuất khẩu đi hơn 125 quốc gia, chiếm lĩnh nhiều thị trường quan trọng. Hạt tiêu là một trong những sản phẩm có giá trị và sản lượng xuất khẩu tăng cao. Bên cạnh việc gia tăng sản phẩm chế biến, thì xúc tiến thương mại cũng đóng vai trò quan trọng để đưa gia vị Việt Nam đến với người tiêu dùng thế giới.
- Theo thống kê bộ sơ bộ của Hiệp hội Hạt tiêu và cây gia vị Việt Nam, tính đến hết tháng 8/2024, Việt Nam đã xuất khẩu được 183.756 tấn hạt tiêu các loại. Trong đó tiêu đen đạt 162.721 tấn, tiêu trắng đạt 21.035 tấn. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong kỳ đạt 881,2 triệu USD, tiêu đen đạt 754,1 triệu USD, tiêu trắng đạt 127,1 triệu USD. So với cùng kỳ năm ngoái lượng hạt tiêu xuất khẩu giảm 2,1% nhưng tăng 43% về kim ngạch.
Nguồn:Vinanet/VITIC