Xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính trong quý I chỉ đạt 3,2 tỷ USD giảm 14% so với cùng kỳ.
Những biến động của nền kinh tế thế giới đã tác động tiêu cực đến xuất khẩu nông lâm thuỷ sản những tháng đầu năm. Giá trị xuất khẩu nông, lâm và thủy sản tháng 3 ước đạt 2,2 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu quý I lên gần 5,9 tỷ USD, xấp xỉ cùng kỳ năm 2011.
Trong đó, các mặt hàng nông sản chính đạt 3,2 tỷ USD giảm 14%; thuỷ sản đạt 1,2 tỷ USD, tăng 9,1%; lâm sản đạt 922 triệu USD, tăng 5,9% so với quý I năm 2011.
Cụ thể một số mặt hàng chính như sau:
Gạo: Ước tháng 3 xuất khẩu 600 ngàn tấn, kim ngạch đạt 315 triệu USD, đưa tổng lượng gạo xuất khẩu 3 tháng đầu năm ước đạt 1,3 triệu tấn, kim ngạch đạt 681 triệu USD, giảm 32,1% về lượng và 29,5% về giá trị so với cùng kì năm trước.
Mặc dù áp lực cạnh tranh từ nhà xuất khẩu gạo lớn là Thái Lan đã giảm nhờ vào chính sách đảm bảo giá mua cao cho nông dân của nước này. Tuy nhiên, gạo Việt Nam vẫn còn các đối thủ xuất khẩu gạo chất lượng trung bình khác là Ấn Độ, Myanma và Pakixtan, giá gạo của Việt Nam đang cao hơn của các nước này. Giá gạo xuất khẩu tăng nhẹ (2,8%) so với cùng kỳ năm 2011, giá xuất khẩu bình quân 2 tháng đạt 520 USD/tấn.
Tuy có sự sụt giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước nhưng Inđônêxia vẫn là thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất chiếm 1/3 lượng và giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam. Sự tăng trưởng đáng chú ý trong xuất khẩu gạo năm nay là nhóm thị trường Hồng Kông, Trung Quốc và Đài Loan. Gạo thơm của Việt Nam đã dần chiếm lĩnh được lòng tin của nhóm thị trường này, với tốc độ tăng trưởng từ 2 đến 4 lần so với cùng kỳ năm trước.
Cà phê: Ước xuất khẩu tháng 3 đạt 190 ngàn tấn với trị giá 387 triệu USD, đưa tổng lượng xuất khẩu quý I lên 504 ngàn tấn và giá trị xấp xỉ 1 tỷ USD, giảm 11,9% về lượng và 14,3% về giá trị.
Khủng hoảng nợ ở khu vực đồng tiền chung euro có thể là một trong những nguyên nhân khiến việc tiêu thụ cà phê bị sụt giảm. Mặc dù vậy theo đà tăng giá của các mặt hàng nông sản khác giá cà phê xuất khẩu cũng tăng nhẹ (2,3% so với cùng kỳ năm trước). Giá xuất khẩu bình quân 2 tháng đang ở mức 2.039 USD/tấn. Bù đắp cho sự sụt giảm ở các thị trường châu Âu, cà phê lại được đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường mớ i, tăng trưởng v ượt bậc được ghi nhận ở Inđônêxia (gấp 9 lần), Ăngiêri và Mêhicô (gấp gần 4 lần).
Cao su: Khối lượng cao su xuất khẩu tháng 3 ước đạt 70 ngàn tấn và thu về 196 triệu USD, như vậy quý I xuất khẩu cao su ước đạt 228 ngàn tấn về lượng với trị giá 640 triệu USD; tăng 40,6% về lượng nhưng giá trị lại giảm 9,9% so với cùng kỳ năm 2011. Xuất khẩu cao su đang lâm vào tình trạng ảm đạm do khủng hoảng kinh tế khiến giá cao su sụt giảm mạnh, hơn nữa thị trường chính tiêu thụ cao su của Việt Nam là Trung Quốc đang có một lượng tồn kho lớn. Giá cao su bình quân 2 tháng chỉ bằng 62,9% giá cùng kỳ năm 2011.
Chè: Ước xuất khẩu tháng 3 đạt 9 ngàn tấn với kim ngạch đạt 13 triệu USD đưa tổng lượng chè xuất khẩu 3 tháng đầu năm ước đạt 29 ngàn tấn, kim ngạch đạt 41 triệu USD, tăng cả về lượng (14,5%) và giá trị (16,9%) so với cùng kỳ năm trước.
Mặc dù vẫn là bạn hàng lớn của Việt Nam nhưng xuất khẩu chè sang Pakixtan có sự sụt giảm mạnh chỉ bằng 2/3 cùng kỳ năm ngoái. Các thị trường có sự tăng trưởng đáng ghi nhận là Inđônêxia (gấp 3 lần), Arập Xêút (gấp gần 2,5 lần), Ba Lan (tăng hơn 40%), Hoa Kỳ (tăng 30%). Nhìn chung, tình hình xuất khẩu chè của Việt Nam vẫn khả quan, giá xuất khẩu bình quân 2 tháng đạt 1.425 USD/tấn giảm nhẹ với cùng kỳ năm 2011.
Hạt điều: Tháng 3, xuất khẩu ước đạt 10 ngàn tấn với giá trị 72 triệu USD, đưa tổng lượng xuất khẩu quý I ở mức 31 ngàn tấn với trị giá 222 triệu USD, tăng cả về lượng (6,6%) và về kim ngạch (8,5%) so với cùng kỳ năm 2011. Xuất khẩu hạt điều duy trì tăng trưởng khá ở đa số các thị trường xuất khẩu. Giá xuất khẩu tăng nhẹ (1,9%) so với cùng kỳ năm trước, giá xuất khẩu trung bình 2 tháng đạt 7.179 USD/tấn.
Tiêu: Xuất khẩu tháng 3 ước đạt 12 ngàn tấn, kim ngạch đạt 82 triệu USD đưa khối lượng tiêu xuất khẩu 3 tháng lên 24 ngàn tấn với giá trị kim ngạch xuất khẩu 164 triệu USD, giảm 7,5% về lượng nhưng vẫn tăng 29,1% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Giá tiêu xuất khẩu tăng mạnh, giá bình quân 2 tháng đạt 6.816 USD/tấn tăng 42,4% so với cùng kỳ năm trước.
Bên cạnh đó, thị trường xuất khẩu gặp nhiều thuận lợi, tăng trưởng ở hầu hết các thị trường ngoại trừ Hoa Kỳ (giảm 36,3% về lượng và 0,7% về giá trị ) và Nhật Bản (giảm 9,14% về lượng nhưng giá trị vẫn tăng 50,6%).
Lâm sản và đồ gỗ: Tháng 3, xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính và đồ gỗ ước đạt 280 triệu USD đưa tổng kim ngạch xuất khẩu quý I ước đạt 922 triệu USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, gỗ và sản phẩm gỗ ước đạt 866 triệu USD, tăng 6%; sản phẩm mây tre, cói thảm ước đạt 50 triệu USD, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước.
Thuỷ sản: Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tháng 3 ước đạt 460 triệu USD đưa giá trị xuất khẩu 3 tháng đầu năm đạt 1,2 tỷ USD, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù vấp phải những khó khăn trên thị trường EU, nhưng xuất khẩu thuỷ sản vẫn tăng trưởng khá so với các mặt hàng nông sản khác.
Bên cạnh sự suy giảm của các thị trường EU như Đức (giảm 22,2% so với cùng kỳ năm 2011), thì thuỷ sản Việt Nam vẫn tiêu thụ khá tốt ở các thị trường Nhật B ản (tăng 22,9%), Hàn Quốc (tăng 23,8%), Mêhicô (tăng 65,9%). Tuy nhiên, an toàn vệ sinh thực phẩm vẫn luôn là một trong những vấn đề đáng quan tâm hơn cả của các doanh nghiệp xuất khẩu khi mà thuỷ sản Việt Nam thường xuyên nằ m trong danh sách bị cảnh báo về dư lượng kháng sinh.
Nguồn:Tin tham khảo