I. Tổng quan về thị trường Israel
Israel nằm ở khu vực Trung Đông với diện tích khoảng 20.770 km2, dân số khoảng 7,2 triệu người, trong đó 76,4% là người Do Thái, còn lại là các dân tộc khác.
Tiếng Do thái (Hebrew) là ngôn ngữ chính thức, ngoài ra tiếng A-rập và tiếng Anh cũng được sử dụng rộng rãi.
Về tài nguyên khoáng sản, Israel ít được thiên nhiên ưu đãi, chỉ có một lượng ít potash, quặng đồng, phốt-phát dạng đá, bromide ma-nhê, đất sét...
Về kinh tế, năm 2007, GDP của Israel tăng 5,4% và đạt 195 tỷ USD, thu nhập trên đầu người đạt 28.800 USD. Kim ngạch xuất khẩu đạt 48,6 tỷ USD, với các mặt hàng là máy móc thiết bị, phần mềm, kim cương, sản phẩm nông nghiệp, hóa chất, hàng may mặc,... Kim ngạch nhập khẩu đạt 52,8 tỷ USD với các mặt hàng là sắt thép thô, trang thiết bị quân sự, hàng tiêu dùng, dầu mỏ, hạt giống, kim cương thô…
Nền kinh tế Israel phát triển mạnh theo cơ chế thị trường, dựa vào các ngành công nghiệp công nghệ cao và hoạt động dịch vụ. Cơ cấu kinh tế gồm: nông nghiệp 1,6%, công nghiệp 30,8%, dịch vụ 67%. Nông nghiệp của Israel phát triển cao với ứng dụng công nghệ sinh học hàng đầu thế giới.
II. Quan hệ kinh tế với Việt Nam
Việt Nam và Israel thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 12/7/1993. Tháng 12 cùng năm, Israel mở Đại sứ quán tại Hà Nội, khởi đầu nhiều hoạt động mở rộng sự hiểu biết lẫn nhau, thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại, đào tạo, trao đổi kinh nghiệm khoa học-công nghệ...đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiêp, thủy lợi, y tế...
Hai nước đã ký kết: Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế, nông nghiệp, thương mại, khoa học-kỹ thuật (1996), Hợp tác Hải quan, Du lịch, nông nghiệp, Hiệp định Thương mại (2004), Hiệp định hợp tác văn hoá, Hiệp định hợp tác vận tải hàng không. Hiện nay hai bên đang đàm phán để ký kết Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư.
Kim ngạch trao đổi thương mại song phương giữa Việt nam và Israel không ngừng gia tăng. Năm 2006, xuất khẩu của Việt Nam sang Israel đạt 40,8 triệu USD và nhập khẩu đạt 37,2 triệu USD. Năm 2007, tổng kim ngạch buôn bán hai chiều đạt 144 triệu USD, trong đó Việt nam xuất khẩu 57 triệu USD và nhập khẩu 87 triệu USD. Các mặt hàng xuất khẩu chính của ta sang Israel gồm: giày dép, cà phê, gạo, hải sản, sản phẩm gỗ các loại, dệt may, hạt điều, chè, thủ công mỹ nghệ, hạt tiêu, linh kiện điện tử, quế... Ngược lại, Việt nam nhập khẩu chủ yếu từ Israel gồm máy móc thiết bị, phân bón, sản phẩm linh kiện điện tử, chất dẻo nguyên liệu, nguyên liệu thức ăn gia súc, thuốc sâu, hoá chất, dược phẩm...
Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Israel, 2003 – 2008
Đơn vị: triệu USD
Năm |
Tổng kim ngạch |
Xuất khẩu |
Nhập khẩu |
2003 |
44,204 |
22,575 |
21,629 |
2004 |
66,097 |
31,666 |
34,431 |
2005 |
67,490 |
31,504 |
35,986 |
2006 |
84,696 |
43,426 |
41,270 |
2007 |
140,697 |
57,281 |
83,416 |
6 tháng đầu năm 2008 |
80,332 |
36,049 |
53,683 |
(tin thương mại)
Nguồn:Vinanet