Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm do USD mạnh lêntrong bối cảnh đại dịch Covid-19 tại Ấn Độ ngày càng trầm trọng và đường ống dẫn dầu tại Mỹ đã nối lại hoạt động.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu Brent Biển Bắc giảm 2,27 USD (3,3%) xuống 67,05 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 2,26 USD (3,4%) xuống 63,82 USD/thùng. Giá hai loại dầu chủ chốt này để ghi nhận mức giảm phần trăm lớn nhất tính theo ngày kể từ đầu tháng 4/2021.
Bên cạnh đó, giá dầu mỏ cũng chịu sức ép do giá hàng hóa nhìn chung đều tăng, thiếu hụt lao động và số liệu về chỉ số giá tiêu dùng tăng nhiều hơn dự kiến trong tuần này đã làm dấy lên lo ngại lạm phát, có thể buộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất.
Việc tăng lãi suất thường sẽ thúc đẩy đồng USD đi lên, từ đó gây áp lực lên giá dầu vì khiến dầu mỏ trở nên đắt hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Việc đóng cửa Colonial Pipeline suốt một tuần qua, nơi vận chuyển 100 triệu gallon nhiên liệu mỗi ngày, gây ra tình trạng thiếu xăng, cũng như tình trạng khẩn cấp từ bang Virginia đến Florida, khiến hai nhà máy lọc dầu phải hạn chế sản xuất và thúc đẩy các hãng hàng không cải tổ hoạt động tiếp nhiên liệu (1 gallon = 3,78 lít). Những người lái xe ở Mỹ mong đợi các trạm đổ xăng sẽ bắt đầu hoạt động trở lại vào cuối tuần này, dù cho khi tình trạng thiếu hụt nguồn cung đang diễn ra ở một số khu vực, trong bối cảnh mạng lưới đường ống dẫn nhiên liệu hàng đầu của nước này -Colonial Pipeline -vừa được khởi động lại sau khi bị đóng cửa bởi một cuộc tấn công bằng mã độc tống tiền.
Một dấu hiệu khác làm tác động đến nhu cầu dầu là Ấn Độ, nước nhập khẩu dầu thô lớn thứ ba thế giới, đã ghi nhận thêm một biến thế mới của virus gây dịch COVID-19. Các chuyên gia y tế cũng chưa thể trả lời về việc khi nào số ca mắc sẽ bùng tăng cao và các quốc gia khác đang cảnh giác về khả năng lây nhiễm của biến thể hiện đang lan rộng trên toàn thế giới này.
Các nhà phân tích của PVM cho biết có những lo ngại về sự lây lan dịch bệnh tại Ấn Độ và châu Á ngày càng tăng sẽ làm suy giảm nhu cầu dầu mỏ. Tuy nhiên, tác động của điều này dự kiến sẽ tương đối ngắn và nửa cuối năm 2021 sẽ chứng kiến sự phục hồi nhanh chóng của tăng trưởng nhu cầu dầu.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng hồi phục từ mức thấp nhất một tuần khi lợi suất trái phiếu Kho bạc Mỹ giảm giúp củng cố sức hấp dẫn của kim loại này.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,5% lên 1.824,89 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 6/2021 tăng 0,1% lên 1.824 USD/ounce.
Lợi suất trái phiếu Kho bạc kỳ hạn 10 năm của Mỹ phiên này đảo chiều giảm sau bốn ngày tăng liên tiếp, khiến vàng trở nên hấp dẫn hơn trong mắt các nhà đầu tư.
Ông Jeffrey Sica, người sáng lập công ty tư vấn Circle Squared Alternative Investments, cho biết những số liệu kinh tế tại Mỹ đang tạo tác động tích cực đến giá vàng và đà tăng của kim loại quý này có thể sẽ kéo dài trong tương lai.
Báo cáo mới nhất cho thấy số người Mỹ nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu trong tuần trước đã giảm. Cùng với đó là giá sản xuất tại nước này tăng hơn dự kiến trong tháng 4/2021.
Kết hợp những số liệu đó với báo cáo cho hay giá tiêu dùng của Mỹ đã tăng mạnh nhất trong gần 12 năm vào tháng trước càng làm gia tăng lo ngại về lạm phát phi mã và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có thể tăng lãi suất.
Tuy nhiên, Fed đã cam kết giữ lãi suất ở mức thấp cho đến khi nền kinh tế đạt mức toàn dụng lao động, còn lạm phát chạm mức 2% và duy trì vượt mức đó trong một khoảng thời gian.
Thị trường đang chờ đợi số liệu về doanh số bán lẻ của Mỹ dự kiến công bố vào ngày 14/5 (theo giờ địa phương) để có thêm những chỉ dấu về tình hình “sức khỏe” của nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Về những kim loại quý khác, giá bạc đi ngang ở mức 27,03 USD/ounce, trong khi giá bạch kim giảm 0,8% xuống 1.200,31 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng cũng giảm trở lại do đồng USD tăng, số liệu cho vay từ nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc – suy giảm và mối lo ngại chính quyền Trung Quốc có thể kiềm chế giá hàng hóa, gây ra tình trạng bán tháo.
Giá đồng trên sàn London giảm 0,9% xuống 10.350 CNY/tấn. Trong đầu tuần này, giá đồng đạt mức cao kỷ lục (10.747,5 USD/tấn).
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm giảm 0,9% xuống 2.457 USD/tấn, kẽm giảm 1,7% xuống 2.919 USD/tấn, chì giảm 1,8% xuống 2.147 USD/tấn, thiếc giảm 1,6% xuống 29.190 USD/tấn và nickel mất 17.380 USD/tấn.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc giảm 9,5% từ mức cao kỷ lục lịch sử của phiên liền trước, kết thúc chuỗi những ngày liên tiếp lập những mức cao kỷ lục mới.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2021 trên sàn Đại Liên giảm 7,5% xuống 1.217 CNY (188,66 USD)/tấn, sau khi chạm 1.190 CNY/tấn trong đầu phiên giao dịch và rời khỏi chuỗi tăng 5 phiên liên tiếp.
Tuy nhiên, tính từ đầu tháng đến nay giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng 23% tương đương 248,5 CNY/tấn, do lo ngại các hạn chế sản xuất thép, nhu cầu mùa vụ cao điểm và lo ngại lạm phát thúc đẩy hoạt động mua đầu cơ.
Đối với thép, trên sàn Thượng Hải giá thép cây kỳ hạn tháng 10/2021 giảm 2,9% xuống 5.915 CNY/tấn. Giá thép cuộn cán nóng giảm 2,5% xuống 6.438 CNY/tấn. Giá thép không gỉ kỳ hạn tháng 6/2021 giảm 2% xuống 15.260 CNY/tấn.
Hội đồng Nhà nước Trung Quốc cho biết, sẽ tăng cường phối hợp giữa chính sách tiền tệ và các chính sách khác, để duy trì hoạt động kinh tế ổn định và đối phó với tình trạng giá hàng hóa tăng nhanh mà không đưa ra các biện pháp chi tiết.
Trên thị trường nông sản, giá ngô tại Mỹ giảm hơn 5% do hoạt động bán ra chốt lời sau khi giá tăng lên mức cao nhất nhiều năm và Bộ Nông nghiệp Mỹ dự báo tồn trữ ngô nội địa cao hơn so với dự kiến.
Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 7/2021 giảm 40 US cent xuống 6,74-3/4 USD/bushel. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 7/2021 giảm 58-1/2 US cent xuống 15,84 USD/bushel và giá lúa mì giao cùng kỳ hạn giảm 28-1/4 US cent xuống 7,01-1/2 USD/bushel.
Giá đường thô giảm 4% trong phiên vừa qua, thoái lui từ mức cao nhất 2,5 tháng trong phiên trước đó, do hoạt động bán ra chốt lời; giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2021 trên sàn ICE giảm 0,73 US cent tương đương 4,1% xuống 17,11 US cent/lb. Trong khi đó, giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2021 trên sàn London giảm 16,3 USD tương đương 3,5% xuống 455,5 USD/tấn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 7/2021 trên sàn New York phiên vừa qua giảm 0,1 US cent tương đương 0,1% xuống 1,464 USD/lb; giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 7/2021 trên sàn London giảm 19 USD tương đương 1,3% xuống 1.495 USD/tấn.
Tại Châu Á, giao dịch cà phê ở Việt Nam không nhiều do nguồn cung thắt chặt và nhu cầu yếu, trong khi thị trường Indonesia không có giao dịch do nghỉ lễ.
Giá cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) được chào giá cộng 55 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 7/2021 trên sàn London, không thay đổi so với cách đây 1 tuần; cà phê nhân xô trong nước được bán với giá 32.600-33.900 VND (1,41-1,47 USD)/kg, giảm so với mức giá 34.000-34.700 VND/kg cách đây 1 tuần.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm, sau một khảo sát chính thức cho thấy niềm tin trong lĩnh vực dịch vụ tháng 4/2021 của nước này giảm mạnh nhất trong 1 năm, ảnh hưởng đến nhu cầu hàng hóa như cao su.
Giá cao su kỳ hạn tháng 10/2021 trên sàn Osaka giảm 1 JPY tương đương 0,4% xuống 252 JPY/kg; giá cao su kỳ hạn tháng 9/2021 trên sàn Thượng Hải giảm 3,2% xuống 13.715 CNY/tấn, trong khi giá các hàng hóa khác bao gồm đồng tăng 1,6%.
Giá hàng hóa thế giới sáng 14/5/2021
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
63,55
|
-0,27
|
-0,42%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
66,71
|
-0,34
|
-0,51%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
43.150,00
|
-1.140,00
|
-2,57%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,98
|
+0,01
|
+0,17%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
208,68
|
-0,85
|
-0,41%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
198,88
|
-1,21
|
-0,60%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
544,50
|
-4,25
|
-0,77%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
58.770,00
|
-220,00
|
-0,37%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.822,90
|
-1,10
|
-0,06%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
6.429,00
|
+16,00
|
+0,25%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
27,04
|
-0,02
|
-0,09%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
95,30
|
+0,20
|
+0,21%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
1.218,41
|
+6,83
|
+0,56%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
2.872,57
|
+8,07
|
+0,28%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
468,40
|
-0,65
|
-0,14%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
10.342,00
|
-103,50
|
-0,99%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.451,50
|
-29,00
|
-1,17%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.920,00
|
-49,00
|
-1,65%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
29.206,00
|
-454,00
|
-1,53%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
678,75
|
+4,00
|
+0,59%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
711,00
|
+9,50
|
+1,35%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
374,75
|
+3,00
|
+0,81%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
13,69
|
+0,03
|
+0,22%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.595,50
|
+11,50
|
+0,73%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
425,00
|
+3,60
|
+0,85%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
65,96
|
+0,18
|
+0,27%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
739,40
|
+2,50
|
+0,34%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.502,00
|
-15,00
|
-0,60%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
146,40
|
-0,10
|
-0,07%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
17,11
|
-0,73
|
-4,09%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
115,00
|
+0,90
|
+0,79%
|
Bông
|
US cent/lb
|
84,42
|
-0,56
|
-0,66%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
1.453,00
|
-42,00
|
-2,81%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
164,20
|
-9,20
|
-5,31%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,34
|
0,00
|
0,00%
|
Nguồn:VITIC / Reuters, Bloomberg