Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm khoảng 3 USD/thùng sau khi giới phân tích nhấn mạnh nguồn cung toàn cầu đang gia tăng và lo ngại về tăng trưởng nhu cầu trong bối cảnh thị trường chuẩn bị nhận thông tin quan trọng về lạm phát và cuộc họp của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ diễn ra vào cuối tuần này.
Kết thúc phiên, dầu Brent giảm 2,95 USD, hay 3,9%, xuống 71,84 USD/thùng, thấp nhất kể từ tháng 12/2021; dầu ngọt nhẹ của Mỹ (WTI) giảm 3,05 USD, hay 4,4%m xuống 67,12 USD/thùng.
Ngân hàng Goldman Sachs Chủ nhật tuần trước đã hạ dự báo giá dầu với lý do nguồn cung sẽ cao hơn dự kiến vào cuối năm nay và sang đầu năm 2024. Dự báo giá dầu thô tháng 12 của ngân hàng hiện ở mức 86 USD/thùng đối với dầu Brent, (giảm từ mức 95 USD/thùng) và 81 USD/thùng đối với dầu WTI (giảm từ 89 mức USD/thùng).
Nhà phân tích Matt Smith của Kpler cho biết: “Việc Goldman hạ dự báo giá dầu dường như là chất xúc tác để bắt đầu bán ra ngày hôm nay”.
Sự điều chỉnh trên được đưa ra vào đầu tuần với trọng tâm chú ý dồn vào cuộc họp của Fed. Nhà phân tích Robert Yawger của ngân hàng UBS cho biết trong khi Fed dự kiến sẽ giữ nguyên lãi suất trong tháng này, giới đầu tư lo ngại rằng việc tăng lãi suất có thể sẽ tiếp tục vào tháng tới.
Việc Fed tăng lãi suất đã củng cố đồng USD, khiến hàng hóa tính bằng đồng bạc xanh trở nên đắt đỏ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác và gây áp lực lên giá dầu.
Rob Haworth, chiến lược gia đầu tư cao cấp của U.S. Bank Asset Management, cho biết cuộc họp của Fed và áp lực lạm phát vẫn là những vấn đề chính đối với thị trường trong tuần này. Theo ông, giới đầu tư sẽ theo dõi chặt chẽ cuộc họp báo của Chủ tịch Fed Jerome Powell để tìm kiếm dấu hiệu về lộ trình lãi suất dự kiến.
Một yếu tố nữa gây áp lực lên tâm lý nhà đầu tư là đà phục hồi nhu cầu dầu ở Trung Quốc (nước nhập khẩu dầu thô và các sản phẩm tinh chế hàng đầu thế giới) không mấy khả quan.
Theo chuyên gia Yawger: "Nhu cầu năng lượng của Trung Quốc chưa có dấu hiệu tăng như dự báo có thể lên tới 2 triệu thùng/ngày, là khối lượng đáng kể. Thị trường chắc chắn lo ngại rằng Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) sẽ cắt giảm dự báo nhu cầu dầu.
OPEC và IEA sẽ công bố thông tin cập nhật thị trường hàng tháng vào thứ Ba.
Tuần trước, cả dầu Brent và WTI đều giảm tuần thứ hai liên tiếp khi số liệu kinh tế đáng thất vọng của Trung Quốc đã lấy đi toàn bộ mức tăng giá có được khi Saudi Arabia cam kết cắt giảm sản lượng trong tháng 7.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do USD và lợi suất trái phiếu Mỹ ở mức cao, trong khi các nhà giao dịch chuẩn bị cho một tuần bận rộn với báo cáo lạm phát quan trọng của Mỹ và các cuộc họp chính sách của ngân hàng trung ương lớn.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay giảm 0,4% xuống 1.953,77 USD/ounce; vàng giao sau giảm 0,4% xuống 1.969,7 USD/ounce.
Một loạt báo cáo quan trọng liên quan tới tình hình lạm phát của Mỹ cũng thu hút nhiều sự chú ý của thị trường.
Chỉ số USD tăng 0,2% khiến vàng đắt hơn cho người mua bằng ngoại tệ khác, trong khi lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng cũng khiến vàng kém hấp dẫn.
Bob Haberkorn, chiến lược gia thị trường cấp cao của RJO Futures, cho biết: “Bước vào tuần này với vàng gần giống như tung đồng xu.
Thị trường đang chờ đợi báo cáo Chỉ số giá tiêu dùng tháng 5/2023 của Mỹ, dự kiến được công bố vào thứ Ba. Ngay sau đó, báo cáo Chỉ số giá sản xuất cho cùng tháng sẽ được công bố vào sáng thứ Tư, trước quyết định lãi suất của Fed vào cuối ngày hôm đó.
Ông Haberkorn nói: “Nếu Fed thật sự ngừng tăng lãi suất, giá vàng sẽ tăng cao bất chấp những tuyên bố khá “diều hâu” của ngân hàng trung ương này.
Các nhà đầu tư đang đặt cược Fed có 76% khả năng giữ nguyên lãi suất tại cuộc họp tuần này và 71% khả năng tăng lãi suất vào tháng Bảy.
Ngân hàng Trung ương châu Âu và Ngân hàng Nhật Bản sẽ lần lượt đưa ra các quyết định về lãi suất vào thứ Năm và thứ Sáu.
Nhà phân tích Rupert Rowling của công ty Kinesis Money cho biết: “Vàng đang giao dịch với giả định rằng lãi suất của Mỹ sẽ giữ nguyên ở mức hiện tại và bất kỳ đợt tăng nào cũng có khả năng khiến kim loại quý này lao dốc xuống mức 1.900 USD/ounce”.
Về các kim loại quý khác, giá bạc phiên này giảm 1,3% xuống 23,95 USD/ounce, trong khi giá bạch kim giảm 1,92% xuống mức thấp nhất trong hai tháng là 989,67 USD/ounce. Giá palladium, kim l oại được sử dụng trong các thiết bị kiểm soát khí thải trên ô tô, tăng 1,4% lên 1.342,27 USD, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ tháng 5 năm 2019 vào thứ Sáu.
Nhà phân tích Jacob Smith của Metal Focus cho biết: “Palladium có thể tăng trở lại trên 1.500 USD trong quý 4 năm nay nhờ sản xuất ô tô cải thiện, tuy nhiên kim loại này hiện đang chịu áp lực từ việc các nhà sản xuất ô tô giảm lượng hàng tồn kho”.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do thị trường lo lắng về nhu cầu tại Trung Quốc trong khi chờ cuộc họp tiếp theo của Fed về lãi suất, mặc dù USD yếu hơn đã ngăn giá giảm mạnh.
Trên sàn giao dịch kim loại London (LME), giá đồng giảm 0,98% xuống 8.300 USD/tấn. Giá kim loại này đã đạt mức cao nhất một tháng trong ngày 9/6 nhờ lạc quan về khả năng Trung Quốc có thêm kích thích kinh tế.
Về các kim loại cơ bản khác, giá nhôm phiên này giảm 1,8% xuống 2.226 USD/tấn, kẽm giảm 2,7% xuống 2.339 USD, chì tăng 0,5% lên 2.067 USD, thiếc giảm 2,2% xuống 25.925 USD và niken giảm 2% xuống 20.755 USD.
Giá quặng sắt cũng giảm trong bối cảnh nhà đầu tư bán chốt lời, với quặng sắt trên sàn Singapore giảm sau 8 phiên tăng liên tiếp và trên sàn Đại Liên giảm từ mức cao nhất 10 tuần.
Các nhà giao dịch thận trọng trước một loạt số liệu kinh tế tháng 5 của Trung Quốc được công bố trong tuần này, như sản xuất công nghiệp, doanh số bán lẻ, số liệu cho vay của ngân hàng và giá nhà cũng như quyết định của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) về lãi suất cho vay trung hạn.
Kết thúc phiên, quặng sắt giao tháng 7 trên sàn Singapore giảm 4,8% xuống 107,2 USD/tấn; quặng sắt giao tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên giảm 1,8% xuống 785,5 CNY (109,96 USD)/tấn.
Giá thép cây tại Thượng Hải giảm 1,1%, thép cuộn cán nóng giảm 0,8%, dây thép cuộn giảm 1,3% và thép không gỉ tăng 0,9%.
Hy vọng về một gói kích thích lớn hơn, đáng kể hơn để hỗ trợ nền kinh tế của Trung Quốc, nhà sản xuất thép hàng đầu khiến giá quặng sắt tăng bắt đầu từ cuối tháng 5.
Trong khi các thương nhân tiếp tục suy đoán về triển vọng kích thích kinh tế ở Trung Quốc, bao gồm hỗ trợ bổ sung cho lĩnh vực bất động sản đang gặp khó khăn của nước này, các nhà phân tích cho biết các yếu tố cơ bản của thị trường không thực sự thay đổi nhiều.
Atilla Widnell, giám đốc điều hành của Navigate Commodities cho biết: “Có rất ít dấu hiệu cho thấy hoạt động xây dựng và/hoặc sản xuất của Trung Quốc sẽ sớm mở rộng mạnh mẽ vì sẽ cần thời gian để các chương trình kích thích nhắm mục tiêu vi mô đạt được kết quả mong muốn”.
Tuy nhiên, quặng sắt có thể vẫn được hỗ trợ khi sự chú ý chuyển sang quyết định lãi suất cho vay trung hạn của PBOC. Các nhà phân tích của Goldman Sachs cho biết lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc dự kiến sẽ phải vật lộn với sự yếu kém kéo dài trong nhiều năm và các vấn đề của nó sẽ tiếp tục cản trở tăng trưởng kinh tế của nước này.
Trên thị trường nông sản, giá ngô Mỹ tăng do lo ngại về tình trạng khô hạn ở Mỹ. Giá lúa mì tăng theo ngô và do căng thẳng gia tăng tại khu vực xuất khẩu ngũ cốc ở Biển Đen.
Kết thúc phiên, giá lúa mì kỳ hạn tháng 7 trên sàn Chicago tăng 3-1/2 US cent lên 6,33-3/4 USD/bushel. Giá ngô giao cùng kỳ hạn tăng 13 US cent lên 6,17-1/4 USD/bushel sau khi lên 6,23-3/4 USD, mức cao nhất kể từ ngày 21/4. Giá đậu tương diễn biến trái chiều, với hợp đồng kỳ hạn tháng 7 kết thúc phiên giảm do nhu cầu xuất khẩu yếu và chốt lời sau khi lên mức cao nhất 4 tuần, trong khi hợp đồng đậu tương vụ mới tăng do lo lắng thời tiết khô hạn tại khu vực Midwest. Theo đó, đậu tương kỳ hạn tháng 7 giảm 13-3/4 US cent xuống 13,72-3/4 USD/bushel, thoái lui sau khi tăng lên 13,92-3/4 USD, cao nhất kể từ ngày 16/5; đậu tương vụ mới kỳ hạn tháng 11 đóng cửa tăng 4-3/4 US cent lên 12,09 USD/bushel.
Giá đường tăng do lo ngại hiện tượng thời tiết El Nino có thể dẫn tới khô hạn hơn bình thường tại các nhà sản xuất lớn ở Châu Á như Ấn Độ và Thái Lan, từ đó hạn chế sản lượng.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7 kết thúc phiên tăng 0,09 US cent hay 0,4% lên 25,47 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 8 tăng 3,7 USD hay 0,5% lên 684,6 USD/tấn.
Ấn Độ không xem xét cho phép xuất khẩu đường ít nhất cho đến nửa đầu của vụ tới, vì chính phủ lo ngại thời tiết El Nino có thể làm giảm lượng mưa và ảnh hưởng tới sản lượng. Các đại lý cũng lưu ý rằng Trung Quốc có thể đang mua đường thô đã hỗ trợ giá. Tập đoàn đường của Brazil, UNICA, dự kiến sẽ công bố dữ liệu sản xuất nửa cuối tháng 5 vào thứ Ba hoặc thứ Tư.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9 đóng cửa giảm 21 USD hay 0,8% xuống 2.681 USD/tấn; cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 giảm 5,15 US cent hay 2,8% xuống 1,8150 USD/lb.
Các nhà đầu cơ đang mở rộng vị thế mua ròng trong bối cảnh nguồn cung khan hiếm. Sản lượng tại Indonesia thấp hơn dự đoán trong khi hiện tượng thời tiết El Nino đe dọa hạn chế sản lượng tại Việt Nam.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản giảm xuống mức thấp nhất trong gần hai tuần, theo xu hướng thị trường Thượng Hải trước khi có số liệu mới trong tuần này, phần lớn được cho là sẽ thấp hơn dự báo.
Hợp đồng cao su giao tháng 11 trên sàn giao dịch Osaka lúc đóng cửa giảm 2,2 JPY hay 1% xuống 209,8 JPY (1,5 USD)/kg, tiếp tục giảm phiên thứ 3 liên tiếp và thấp nhất kể từ ngày 2/6. Trên sàn Thượng Hải, cao su giao tháng 9 giảm 175 CNY xuống 11.895 CNY (1.665,15 USD)/tấn. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 7 trên nền tảng SICOM của Sở giao dịch Singapore được giao dịch lần cuối ở mức 131,8 US cent/kg, giảm 1,1%.
Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong quý 2 dự kiến sẽ ở mức "tương đối cao" so với cùng kỳ năm ngoái, chủ yếu là do cơ sở so sánh thấp, trong khi lạm phát tiêu dùng được dự báo sẽ ở mức trên 1% vào tháng 12, thống đốc ngân hàng trung ương cho biết.
Lạm phát giá bán buôn của Nhật Bản trong tháng 5 chậm lại tháng thứ 5 liên tiếp do giá nhiên liệu và hàng hóa giảm.
Giá dầu giảm khuyến khích các nhà sản xuất chuyển sang cao su tổng hợp có nguồn gốc từ dầu mỏ khiến giá cao su tự nhiên giảm.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
67,72
|
-2,45
|
-3,49%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
72,64
|
-2,15
|
-2,87%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
64.810,00
|
-990,00
|
-1,50%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,23
|
-0,03
|
-1,15%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
250,73
|
-8,59
|
-3,31%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
232,80
|
-3,30
|
-1,40%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
688,50
|
-19,50
|
-2,75%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
75.100,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.968,50
|
-8,70
|
-0,44%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
8.757,00
|
-13,00
|
-0,15%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
24,04
|
-0,37
|
-1,52%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
106,00
|
-0,60
|
-0,56%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
995,20
|
-16,50
|
-1,63%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.353,07
|
+24,56
|
+1,85%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
375,70
|
-3,20
|
-0,84%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.371,50
|
+24,00
|
+0,29%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.268,00
|
+13,50
|
+0,60%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.404,50
|
-4,00
|
-0,17%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
26.502,00
|
+685,00
|
+2,65%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
546,50
|
+16,00
|
+3,02%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
633,50
|
+3,25
|
+0,52%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
362,25
|
+3,75
|
+1,05%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
15,45
|
-0,01
|
-0,06%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.211,75
|
+7,50
|
+0,62%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
370,50
|
+3,90
|
+1,06%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
52,11
|
+0,15
|
+0,29%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
662,50
|
-2,40
|
-0,36%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.148,00
|
-27,00
|
-0,85%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
182,55
|
-4,10
|
-2,20%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
25,28
|
+0,26
|
+1,04%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
259,55
|
+1,60
|
+0,62%
|
Bông
|
US cent/lb
|
81,44
|
-0,38
|
-0,46%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
131,30
|
-1,70
|
-1,28%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|
Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)