Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng 6%, sau khi nhóm OPEC+ có kế hoạch cắt giảm sản lượng mạnh hơn nữa, làm dấy lên lo ngại về việc nguồn cung thắt chặt mặc dù có một số cảnh báo nhu cầu giảm nếu các nhà máy lọc dầu phải trả giá dầu thô cao hơn.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu Brent tăng 5,04 USD tương đương 6,3% lên 84,93 USD/thùng, sau khi đạt mức cao nhất kể từ ngày 7/3/2023 (86,42 USD/thùng); dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 4,75 USD, tương đương 6,3%, lên 80,42 USD/thùng, sau khi có lúc đạt mức cao nhất 2 tháng lúc đầu phiên giao dịch.
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh bao gồm Nga, được gọi là OPEC+ thông báo sẽ giảm mục tiêu sản lượng thêm 1,16 triệu thùng/ngày (bpd). Cam kết mới nhất nâng tổng khối lượng dầu cắt giảm bởi OPEC+ lên 3,66 triệu thùng/ngày, bao gồm việc cắt giảm 2 triệu thùng vào tháng 10/2022, tương đương khoảng 3,7% nhu cầu toàn cầu.
Chính quyền của Tổng thống Mỹ Joe Biden cho biết họ đã được "báo trước" về việc cắt giảm sản lượng và nói với các quan chức Saudi rằng họ không ủng hộ điều đó.
OPEC đã mô tả việc cắt giảm là biện pháp phòng ngừa. Các nhà phân tích cho biết nền kinh tế suy yếu và dự trữ dầu tăng là lý do dẫn tới quyết định này. Tháng trước, giá dầu Brent giao dịch gần 70 USD/thùng, mức thấp nhất trong 15 tháng, do lo ngại nhu cầu suy yếu.
Nhà phân tích Mizuho cho biết kể từ giữa tháng 12, tồn kho dầu thô của Mỹ đã tăng khá đều đặn và đạt mức cao nhất trong hai năm vào tuần kết thúc vào ngày 17 tháng 3. Các biện pháp trừng phạt của phương Tây đối với Nga cũng đã dẫn đến một lượng lớn dầu thô của Nga chưa tìm được khách hàng.
Việc hạn chế sản lượng của OPEC+ khiến hầu hết các nhà phân tích đều nâng dự báo giá dầu Brent lên 100 USD/thùng vào cuối năm nay. Điều này có thể thúc đẩy các đợt tăng lãi suất mạnh hơn từ các ngân hàng trung ương và dần dần đẩy các nền kinh tế đến gần suy thoái hơn. Hoạt động sản xuất của Mỹ giảm xuống mức thấp nhất trong gần 3 năm trong tháng 3/2023 và có thể giảm hơn nữa do tín dụng thắt chặt và chi phí đi vay tăng cao.
Fawad Razaqzada, chuyên gia phân tích thị trường của City Index, cho biết lạm phát tác động mạnh đến nền kinh tế thế giới do giá dầu tăng cao sẽ dẫn đến nhiều đợt tăng lãi suất hơn.
"Mọi người sẽ không ngừng lái xe hoặc di chuyển bằng máy bay vì giá dầu cao. Do đó, nhu cầu có thể chỉ bị ảnh hưởng vừa phải bởi giá dầu tăng", ông nói.
Tuy nhiên, trong dài hạn, nhu cầu năng lượng có thể sụt giảm nếu các nhà máy lọc dầu giảm hoạt động để đối phó với chi phí đầu vào tăng. Ông Yawger của Mizuho cho biết sản lượng lọc dầu thấp hơn có thể đẩy giá tại các trạm xăng lên gần mức kỷ lục 5 USD/gallon như năm ngoái.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng 1%, do đồng USD giảm khiến vàng trở thành tài sản trú ẩn an toàn hấp dẫn hơn sau khi OPEC+ cắt giảm sản lượng, dấy lên mối lo ngại lạm phát kéo dài và gây ra sự không chắc chắn về phản ứng của ngân hàng trung ương.
Vàng đã tăng 1% vào thứ Hai khi đồng đô la giảm giá làm tăng sức hấp dẫn của vàng thỏi như một nơi trú ẩn an toàn sau khi OPEC + cắt giảm sản lượng bất ngờ làm dấy lên lo ngại về lạm phát kéo dài và gây ra sự không chắc chắn về phản ứng của ngân hàng trung ương.
Giá vàng giao ngay tăng 0,9% lên 1.984,75 USD/ounce; vàng kgiao sau tăng 0,7% lên 2.000,4 USD/ounce.
Giá bạc phiên này giảm 0,7% xuống 23,91 USD/ounce, bạch kim giảm 0,5% xuống 986,07 USD, trong khi palladium gần như không đổi ở mức 1.460,52 USD.
Edward Moya, nhà phân tích thị trường cao cấp thuộc OANDA, cho biết: “Chúng ta đang liên tục bị ảnh hưởng bởi các sự kiện lớn lớn ở đây và điều đó khiến các nhà đầu tư lo lắng”. Theo ông, quyết định gây sốc của OPEC+ đang "thực sự thúc đẩy giao dịch phòng hộ lạm phát đối với vàng".
Tuy nhiên, đà tăng giá vàng bị hạn chế do hoạt động sản xuất của Mỹ chạm mức thấp nhất trong gần 3 năm trong tháng 3/2023, trong bối cảnh điều kiện tín dụng thắt chặt kéo lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm giảm. Trước đó trong phiên, vàng có lúc chạm mức thấp nhất trong 4 phiên là 1.949,55 USD. Nhà phân tích Rhona O'Connell của StoneX cho biết, đó dường như là một "phản ứng giật mình" đối với sự tăng giá ban đầu của đồng đô la. Vàng thỏi sau đó đã đảo ngược hướng đi, phản ánh sự thay đổi tỷ giá của đồng đô la.
Tuy nhiên, các nhà phân tích cho biết lãi suất tăng vẫn có thể gây trở ngại cho vàng sau này.
Matt Simpson, nhà phân tích thị trường cao cấp của City Index, cho biết: “Vàng hiện dễ bị tổn thương khi giảm xuống còn 1.900 USD, do khả năng Fed tăng mức lãi suất đỉnh lên cao hơn dự đoán của thị trường”.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do giá dầu tăng dấy lên mối lo ngại về lạm phát và lãi suất tại Mỹ tăng cao và hoạt động sản xuất tại nước tiêu thụ hàng đầu thế giới – Trung Quốc – bị đình trệ.
Giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên sàn London giảm 0,9% xuống 8.909,5 USD/tấn. Trong mấy tuần qua, giá đồng tăng được hỗ trợ bởi ý kiến cho rằng việc tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ không mạnh như dự kiến trước đó.
Nhà phân tích Al Munro tại công ty môi giới Marex cho biết, việc tăng giá "làm tăng nỗi lo suy thoái khi dữ liệu PMI Caixin của Trung Quốc vừa công bố cho thấy tình hình trở nên tồi tệ hơn dự kiến".
Chỉ số quản lý mua hàng sản xuất toàn cầu Caixin/S&P (PMI) của Trung Quốc đã giảm xuống 50,0 trong tháng 3, trong bối cảnh sản xuất chậm lại và nhu cầu toàn cầu yếu hơn.
Tuy nhiên, mức giảm giá đồng được hạn chế bởi tồn trữ tại London giảm hơn 15% trong 2 tuần qua xuống 63.850 tấn.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm đạt mức cao nhất 1 tháng (2.434 USD/tấn), do lo ngại giá dầu tăng cao có thể dẫn đến giá năng lượng tăng – một yếu tố chính trong quy trình sản xuất nhôm. Giá kẽm giảm 1,2% xuống 2.886,50 USD/tấn, chì tăng 0,4% lên 2.115 USD, thiếc tăng 0,1% lên 25.850 USD và niken giảm 2,1% xuống 23.340 USD.
Giá quặng sắt trên thị trường châu Á giảm khi các thương nhân lo ngại về sự can thiệp của chính phủ vào thị trường sau đợt phục hồi tuần trước.
Các nhà phân tích cho biết, thị trường thảo luận về việc Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia Trung Quốc (NDRC) đã gặp một số công ty ở Bắc Kinh vào thứ Hai để thảo luận về thị trường quặng sắt gây áp lực lên giá.
Dự báo về mưa và nhiệt độ giảm mạnh cũng ảnh hưởng đến tâm lý với thời tiết dự kiến sẽ cản trở việc xây dựng và ảnh hưởng đến tiêu thụ thép ở hạ nguồn.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn Đại Liên giảm 2,04% xuống 890,5 CNY (129,27 USD/tấn) – thấp nhất kể từ ngày 29/3/2023, sau khi tăng gần 5% trong tuần trước; quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn Singapore giảm 3,77% xuống 120,6 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 27/3/2023, sau khi tăng 5,1% trong tuần trước đó.
Giá thép kỳ hạn cũng có dấu hiệu suy yếu trên diện rộng. Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 3,14% xuống 4.044 CNY/tấn, thép cuộn cán nóng giảm 2,7%, thép cuộn giảm 3,41% và thép không gỉ thay đổi nhẹ.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương và lúa mì Mỹ tăng do giá năng lượng tăng và lo ngại về điều kiện mùa màng của Mỹ. Tuy nhiên, giá ngô đóng cửa ở mức thấp hơn do dự báo thời tiết cho thấy điều kiện khô hạn hơn một chút sẽ thuận lợi cho việc trồng trọt.
Đậu tương vẫn ở mức cao hơn sau khi Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) hôm thứ Sáu dự báo diện tích trồng đậu tương năm 2023 gần mức thấp nhất trong khoảng ước tính của các nhà phân tích và cho biết dự trữ đậu tương đã giảm 13% so với một năm trước.
Trên sàn Chicago, giá đậu tương tăng 16-1/2 US cent lên 15,22 USD/bushel, sau khi đạt mức cao chưa từng có kể từ ngày 9/3/2023 lúc đầu phiên giao dịch; lúa mì tăng 1-1/4 US cent lên 6,93-1/2 USD/bushel; ngô giảm 2-3/4 US cent xuống 6,57-3/4 USD/bushel.
Giá đường trắng trên sàn London tăng lên mức cao nhất trong hơn 10 năm do triển vọng sản lượng giảm và giá năng lượng tăng. Các đại lý lưu ý rằng các quỹ cũng đang mở rộng các vị thế mua ròng đối với cả đường thô và đường trắng.
Giá đường trắng kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn London tăng 3,1 USD tương đương 0,5% lên 633,4 USD/tấn, sau khi tăng lên mức cao nhất 10,5 năm (643 USD/tấn); đường thô kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn ICE tăng 0,15 US cent tương đương 0,7% lên 22,4 US cent/lb, sau khi đạt 22,63 US cent/lb – cao nhất kể từ tháng 10/2016;
"Xu hướng giảm sản lượng đường dường như phổ biến", nhà phân tích Green Pool cho biết trong một thông báo, trong đó dự báo sản lượng của Pakistan niên vụ 2022/23 sẽ giảm xuống còn khoảng 6,6 triệu tấn, giảm 15% so với cùng kỳ năm ngoái. Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc và Liên minh châu Âu cũng đã hạ triển vọng sản xuất trong những tuần gần đây.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn ICE tăng 5,75 US cent tương đương 3,4% lên 1,7625 USD/lb, hồi phục từ mức thấp nhất 2 tháng (1,6615 USD/lb) trong phiên trước đó.
Các đại lý cho biết thị trường đang tập trung vào vụ thu hoạch sắp tới ở nhà sản xuất hàng đầu thế giới - Brazil, với những điều kiện thuận lợi gần đây giúp cải thiện triển vọng.
Brazil đã xuất khẩu 2,72 triệu bao cà phê loại 60 kg trong tháng 3, giảm 20% so với một năm trước, chính phủ cho biết.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn London tăng 23 USD tương đương 1% lên 2.229 USD/tấn, hướng tới mức cao nhất 6,5 tháng (2.250 USD/tấn) trong tuần trước đó. Thị trường robusta đã trở nên khan hiếm hơn, với xuất khẩu từ nhà sản xuất cà phê robusta hàng đầu thế giới - Việt Nam - chậm hơn so với năm ngoái trong khi nhu cầu cũng tăng.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng phiên thứ 3 liên tiếp, được hỗ trợ bởi giá dầu thô tăng, ngay cả khi tăng trưởng hoạt động nhà máy tại nước mua hàng đầu – Trung Quốc – giảm, khiến nhu cầu cao su giảm.
Giá cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Osaka (OSE) tăng 3,8 JPY tương đương 1,8% lên 213,8 JPY (1,6 USD)/kg; cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Thượng Hải giảm 95 CNY xuống 11.915 CNY (1.730 USD)/tấn; cao su kỳ hạn tháng 4/2023 trên sàn Singapore giảm 0,3% xuống 135,3 US cent/kg.
“Nếu không có bất kỳ bất ngờ nào khác như thông báo của OPEC+ sáng nay, giá cao su sẽ được giao dịch tương đối trong phạm vi giới hạn trong tuần này,” một thương nhân tại Singapore cho biết.
Một cuộc khảo sát của ngân hàng trung ương cho thấy tâm lý của các nhà sản xuất Nhật Bản đã trở nên tồi tệ trong quý đầu tiên, xuống mức tồi tệ nhất trong hơn hai năm, làm lu mờ tâm trạng của ngành dịch vụ, củng cố quan điểm về sự phục hồi kinh tế mạnh mẽ sau COVID.
Lĩnh vực sản xuất đang phát triển của Trung Quốc, chiếm 1/3 nền kinh tế lớn thứ hai thế giới tính theo giá trị, đã mất đà vào tháng 3 do các đơn đặt hàng xuất khẩu yếu.
Thị trường cao su tự nhiên được hỗ trợ bởi giá dầu tăng do các nhà sản xuất được khuyến khích chuyển từ cao su tổng hợp có nguồn gốc từ dầu mỏ, đẩy giá cao su tự nhiên cao hơn.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
80,79
|
+0,37
|
+0,46%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
85,28
|
+0,35
|
+0,41%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
68.380,00
|
+850,00
|
+1,26%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,12
|
+0,02
|
+0,95%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
277,84
|
+2,09
|
+0,76%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
267,65
|
+1,39
|
+0,52%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
787,00
|
-2,50
|
-0,32%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
75.000,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.998,10
|
-2,30
|
-0,12%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
8.430,00
|
+61,00
|
+0,73%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
24,01
|
-0,01
|
-0,05%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
100,20
|
+1,00
|
+1,01%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
988,15
|
-4,01
|
-0,40%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.462,57
|
-2,33
|
-0,16%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
403,75
|
-0,80
|
-0,49%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.917,00
|
-76,00
|
-0,09%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.397,50
|
-15,50
|
+1,13%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.898,50
|
-24,00
|
-0,32%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
26.040,00
|
+205,00
|
-0,31%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
656,75
|
-1,00
|
-0,15%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
697,00
|
+3,50
|
+0,50%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
349,50
|
+1,25
|
+0,36%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
17,13
|
+0,05
|
+0,29%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.522,75
|
+0,75
|
+0,05%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
463,90
|
-0,30
|
-0,06%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
56,76
|
+0,08
|
+0,14%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
764,00
|
+4,20
|
+0,55%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.868,00
|
-65,00
|
-2,22%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
176,25
|
+5,75
|
+3,37%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
22,40
|
+0,15
|
+0,67%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
272,55
|
+3,05
|
+1,13%
|
Bông
|
US cent/lb
|
82,66
|
+0,28
|
+0,34%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
370,70
|
-0,70
|
-0,19%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
134,20
|
-1,60
|
-1,18%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|
Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)