menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa thế giới sáng 15/8: Đồng loạt tăng giá khá mạnh

09:22 15/08/2013

Giá hàng hóa trên thị trường thế giới đồng loạt tăng trong phiên giao dịch 14/8 (kết thúc vào rạng sáng 15/8 giờ VN) do những dấu hiệu về lạm phát thúc đẩy giá kim loại quý tăng trên 1%, số liệu từ Trung Quốc nâng giá kim loại công nghiệp, trong khi lo ngại về sự gián đoạn nguồn cung đẩy giá dầu thô tăng lên mức cao kỷ lục 4 tháng.
  
  

(VINANET) 15/08/2013 – Giá hàng hóa trên thị trường thế giới đồng loạt tăng trong phiên giao dịch 14/8 (kết thúc vào rạng sáng 15/8 giờ VN) do những dấu hiệu về lạm phát thúc đẩy giá kim loại quý tăng trên 1%, số liệu từ Trung Quốc nâng giá kim loại công nghiệp, trong khi lo ngại về sự gián đoạn nguồn cung đẩy giá dầu thô tăng lên mức cao kỷ lục 4 tháng.

Các yếu tố về thời tiết đẩy giá hàng hóa nông sản tăng. Dự báo thời tiết khô ở Trung Tây nước Mỹ đẩy giá ngô kỳ hạn tăng 2%, và yếu tố tương tự ở Bờ Biển Ngà đẩy giá cacao tăng mạnh nhất trong tuần.

Giá đậu tương tăng tăng phiên thứ 3 liên tiếp, tăng gần 1%, lên mức cao nhất 2 tuần rưỡi, trong khi giá ngô hồi phục sau khi giảm mạnh nhất 6 tuần phiên trước đó, do dự báo thời tiết khô hạn đe dọa năng suất ở những nước trồng trọt chủ chốt.

Giá cacao kỳ hạn tại ICE tăng 37 USD hay 1,5% lên 2.495 USD/tấn, tính từ đầu tháng tăng khoảng 8% ở ICE và gần 6% ở Liffe.

Trong khi đó, lo sợ về sương giá ở Brazil đẩy giá cà phê arabica tăng gần 2%. Kỳ hạn tháng 9 tăng 1,7% lên 122,65 cent/pound. Giá giao tháng 12 tăng 1,87% lên 125,3 cent/pound. Các kỳ hạn khác giá tăng trên 1,8%.

Trên sàn Liffe tại London, giá cà phê robusta các kỳ hạn có phiên tăng trở lại. Cụ thể, giá giao tháng 9 tăng 27 USD, tương đương 1,38% lên 1.959 USD/tấn. Giá giao tháng 11 tăng 18 USD, tương đương 0,93% lên 1.926 USD/tấn. Các kỳ hạn khác giá tăng trên 0,9%.

Trên thị trường Việt Nam, sau phiên đột ngột giảm mạnh hôm qua, sáng nay giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên đồng loạt tăng 400 nghìn đồng lên 40,4-40,8 triệu đồng/tấn. Giá cà phê robusta giao tại cảng TPHCM giá FOB tăng 27 USD lên 1.969 USD/tấn. Giá tăng ở hai sàn London và New York tác động tích cực tới giá Việt Nam.

Thông tin từ Brazil cho biết sương giá ở bang Parana tại Brazil tháng trước nhiều hơn ước tính trước đó của các nhà đầu tư. Theo Bộ Nông nghiệp Brazil, 62% tổng số cây trồng vụ 2014 tại bang này bị thiệt hại, tương đương khoảng 1 triệu bao cà phê 60 kg. Con số này không lớn so với sản lượng chung toàn cầu nhưng đủ để khuyến khích hoạt động bán khống.

Chỉ số 19 nguyên liệu Thomson Reuters-Jefferies CRB tăng lên mức cao nhất kể từ 24/7, tăng 0,7% so với phiên trước đó và tăng 3,35% kể từ khi giảm xuống mức thấp nhất 1 tháng hôm 7/8.

Đồng kỳ hạn 3 tháng tại Sở giao dịch Kim loại London tăng khoảng 0,6% sau những số liệu cho thấy kinh tế khu vực đồng euro hồi phục và lạc quan về triển vọng tăng trưởng ở Trung Quốc, nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới, làm gia tăng niềm tin vào nhu cầu kim loại công nghiệp.

Giá vàng giao ngay tăng hơn 1% lên 1.334,64 USD/ounce, theo xu hướng giá tăng chung và những dấu hiệu cho thấy lạm phát có thể quay trở lại.

Giá vàng tăng do giá trị đồng USD giảm. Chỉ số Dollar của Bloomberg, đo tỷ giá USD so với 10 đồng tiền giao dịch chính trên thế giới giảm lần đầu tiên trong 3 ngày. Đồng USD yếu đi khiến giá hàng hóa tính theo đồng USD trở nên rẻ tương đối, giá tăng trở lại bù đắp sự sụt giảm tỷ giá này.

Trên sàn Kitco, lúc 6h15 giá vàng giao ngay đứng tại 1.337,2 USD/oz, cao hơn 15,8 USD/oz so với đóng cửa phiên trước. Trước đó, giá vừa chạm mốc 1.340,9 USD/oz.

Trên sàn Comex, giá vàng giao kỳ hạn tháng 12 tăng 1% chốt phiên tại 1.333,4 USD/oz. Khối lượng giao dịch phiên hôm qua thấp hơn 35% so với trung bình 100 ngày. Trên bảng điện tử, giá vàng giao dịch kỳ hạn sáng nay tăng tiếp 5,2 USD/oz so với giá đóng cửa lên 1.338,6 USD/oz.

Giá vàng tăng còn do giới đầu tư đặt nhiều kỳ vọng vào nhu cầu tiêu thụ vàng vật chất của Trung Quốc. Hiệp hội vàng Trung Quốc hôm 12/8 cho biết lượng tiêu thụ vàng nước này nửa đầu năm nay tăng mạnh 54% so với cùng kỳ lên 706,4 tấn. Trong đó, nhu cầu vàng thỏi tăng 87% và vàng trang sức tăng 44%.

Phiên hôm qua, quỹ tín thác vàng lớn nhất thế giới SPDR Gold Trust mua vào 2 tấn vàng, phiên mua vào thứ 2 sau hơn 2 tháng liên tục bán ra. Điều này cũng cải thiện niềm tin của nhà đầu tư đối với vàng, đẩy giá tăng.

Giá dầu thô phiên hôm qua biến động nhẹ do dự trữ Mỹ giảm trong khi đó, các chuyên gia nhận định Fed sẽ giảm kích thích trong tháng 9 tới.

Trên sàn Nymex, giá dầu thô WTI chỉ tăng 2 cent so với phiên trước, đóng cửa tại 106,85 USD/thùng. Khối lượng giao dịch cao hơn 4,2% so với trung bình 100 ngày.

Trên sàn ICE, giá dầu Brent tăng 38 cent, tương đương 0,3%, chốt phiên tại 110,2 USD/thùng. Khối lượng giao dịch thấp hơn 3,3% so với trung bình 100 ngày. Chênh lệch giá dầu WTI và dầu Brent nới rộng lên 3,35 USD/oz, cao nhất kể từ 30/7.

Giá cao su giao tháng 1 trên sàn Tocom kết thúc phiên giao dịch 14/8  tăng 0,9 yên, tương đương 0,3% lên 265,9 yên/kg. Trong phiên giao dịch, giá có lúc tăng tới 1,5% lên 269 yên/kg, mức cao nhất cho một hợp đồng giao dịch sôi động nhất kể từ 29/5.

Giá cao su Tocom tăng do yên tiếp tục giữ ở mức thấp so với USD.

Giá cao su giao tháng 1 trên sàn giao dịch hàng hóa Thượng Hải giảm 85 nhân dân tệ, tương đương 0,4% xuống 19.680 nhân dân tệ/tấn.
Giá cao su Thái Lan giao tại cảng tăng 1,3% lên 80,50 baht/kg (2,57 USD) hôm qua, theo Viện Nghiên cứu cao su của Thái Lan.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/-(%)

So với đầu năm (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

106.88

 0.05

 0.1%

 16.4%

Dầu thô Brent

 USD/thùng

 110.26

 0.44

 0.4%

 -0.8%

Khí thiên nhiên

 USD/gallon

 3.342

0.057

 1.7%

 -0.3%

Vàng giao ngay

 USD/ounce

 1334.00

12.80

 1.0%

-20.4%

Vàng Mỹ

 USD/ounce

 1334.44

13.75

 1.0%

-20.3%

Đồng Mỹ

US cent/lb

3.34

 0.02

 0.7%

 -8.6%

Đồng LME

USD/tấn

7318.00

43.00

 0.6%

 -7.7%

Dollar

 

81.708

 -0.060

-0.1%

6.4%

 CRB

 

290.038

1.961

 0.7%

 -1.7%

Ngô Mỹ

 US cent/bushel

 464.75

 9.50

 2.1%

-33.4%

Đậu tương Mỹ

 US cent/bushel

1368.00

 8.25

 0.6%

 -3.6%

Lúa mì Mỹ

US cent/bushel

 630.50

 2.25

 0.4%

-19.0%

Cà phê arabica

 US cent/lb

122.65

 2.05

 1.7%

-14.7%

Cacao Mỹ

USD/tấn

 2456.00

28.00

 1.2%

9.8%

Đường thô

US cent/lb

 17.25

 0.00

 0.0%

-11.6%

Bạc Mỹ

 USD/ounce

21.787

 21.574

 1.6%

-27.9%

Bạch kim Mỹ

USD/ounce

 1505.20

 5.50

 0.0%

 -2.2%

Palladium Mỹ

USD/ounce

740.35

 1.45

 0.2%

5.3%

(T.H – Reuters)