-
Đậu tương tăng giá bởi nông dân giảm bán ra trong bối cảnh sản lượng có thể thấp
-
Cacao tăng giá bởi lượng xay nghiền giảm
-
Khí gas tăng mạnh nhất, do thời tiết
-
Dầu, kim loại giảm giá do USD tăng, chứng khoán phố Wall giảm
(VINANET) – Giá đậu tương tăng trong phiên giao dịch vừa qua, 18-10 (kết thúc vào rạng sáng 19-10) bởi nông dân giảm bán ra trong bối cảnh cảnh báo vụ mùa có thể giảm, và cacao hồi phục do lượng xay nghiền giảm.
Cacao thường được sử dụng làm bán kẹo và đồ uống.
Khí gas cũng tăng bởi các nhà đầu tư vẫn tích cực mua vào, mặc dù thời tiết mùa thu dịu mát ở đông bắc nước Mỹ, nơi khí gas là một trong những nhiên liệu chính dùng trong sưởi ấm.
Dầu, vàng và đồng giảm giá lúc đóng cửa, bởi đồng USD tăng giá và chứng khoán phố Wall giảm do kết quả kinh doanh trong quý kém hơn dự kiến tại một số công ty Mỹ.
Bông cũng giảm giá, sau khi tăng mạnh hơn tất cả các hàng hóa khác trong 2 ngày qua do lo ngại về chất lượng sợi tiêu thụ ở thị trường Mỹ.
Chỉ số 19 nguyên liệu Thomson Reuters-Jefferies CRB tăng bởi hầu hết các hàng hóa tăng. Khí gas dẫn đầu đà tăng, tăng 3,4%.
Đậu tương tăng 2,4% taiji Chicago, mức tăng mạnh nhất trong vòng 1 tháng. Thị trường này tăng giá hơn 1% trong tuần, là tuần tăng giá đầu tiên kể từ đầu tháng 9, sau khi xuống mức thấp nhất 3-1/2 tháng chỉ mới vài ngày trước đây.
Nông dân đang lưỡng lự bán ra bởi triển vọng vụ thu hoạch 2012 của Mỹ sẽ giảm.
Giá có thể sẽ còn tiếp tục tăng trong 2-3 tuần tới, có thể tăng khoảng 40 đến 60 US cent so với mức thấp của hôm 15-10, khi vụ thu hoạch kết thúc.
Trên các thị trường nông sản khác, giá ngô cũng tăng 2%, còn lúa mì tăng 1,4%.
Cacao kỳ hạn cũng tăng giá trước khi có số liệu về lượng xay nghiền trong quý III ở Bắc Mỹ, ước giảm khoảng 2% so với 3 tháng trước đây.
Cacao đã bắt đầu hồi phục sau khi giảm hơn 300 USD từ mức đỉnh cao hồi đầu tháng 9 do lo ngại nhu cầu giảm và triển vọng vụ mùa Tây Phi được cải thiện.
Cacao Mỹ hợp đồng kỳ hạn tháng 12 giá tăng 53 USD hay 2,2% lên 2.438 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
112,380
|
-0,040
|
-0,04%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
982,750
|
1,250
|
0,13%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
319,570
|
0,910
|
0,29%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,574
|
-0,013
|
-0,36%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
275,190
|
0,680
|
0,25%
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
92,020
|
-0,080
|
-0,09%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
608,000
|
-2,200
|
-0,36%
|
Cacao London
|
GBP/tấn
|
1.569,000
|
34,000
|
2,21%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.438,000
|
53,000
|
2,22%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
158,600
|
-2,900
|
-1,80%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
760,000
|
-0,750
|
-0,10%
|
Bông
|
US cent/lb
|
76,670
|
-1,050
|
-1,35%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
114,250
|
-2,300
|
-1,97%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
866,750
|
-1,750
|
-0,20%
|
Lúa mì KCB
|
US cent/bushel
|
902,750
|
-2,000
|
-0,22%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,790
|
-0,320
|
-1,59%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.537,250
|
-8,250
|
-0,53%
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
315,300
|
-0,400
|
-0,13%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
395,750
|
1,750
|
0,44%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
15,005
|
0,080
|
0,54%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
461,600
|
-1,700
|
-0,37%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
51,840
|
-0,460
|
-0,88%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
1.130,000
|
-5,000
|
-0,44%
|
Đồng
|
US cent/lb
|
372,950
|
-1,350
|
-0,36%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.738,400
|
-6,300
|
-0,36%
|
Vàng Hongkong
|
USD/ounce
|
1.740,000
|
-6,300
|
-0,36%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
32,740
|
-0,128
|
-0,39%
|
Bạc Hongkong
|
USD/ounce
|
33,170
|
0,000
|
0,00%
|
(T.H – Reuters, Bloomberg)