menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa thế giới sáng 3-7: Dầu và kim loại giảm giá

15:13 03/07/2012

Thị trường hàng hóa bước vào quý III (phiên 2-7) biến động thất thường, với năng lượng và kim loại giảm giá bởi lo ngại về triển vọng kinh tế, trong khi thị trường nông nghiệp tiếp tục đà tăng giá do lo ngại về vụ mùa của Mỹ.
  
  
  • Lạc quan về châu Âu nhưng bi quan về số liệu sản xuất của Mỹ
  • Dầu giảm giá trước khi thoát đáy vào lúc đóng cửa, đồng giảm 1%
  • Các thị trường nông sản tiếp tục tăng giá do lo ngại về vụ mùa Mỹ

(VINANET) – Thị trường hàng hóa bước vào quý III (phiên 2-7) biến động thất thường, với năng lượng và kim loại giảm giá bởi lo ngại về triển vọng kinh tế, trong khi thị trường nông nghiệp tiếp tục đà tăng giá do lo ngại về vụ mùa của Mỹ.

Các nhà đầu tư tuần qua vừa hào hứng trở lại sau kết quả khả quan của Hội nghị thượng đỉnh EU, nay trở lại với những lo lắng bởi số liệu sản xuất của Mỹ, châu Âu và Trung Quốc sa sút, tăng trưởng kinh tế chậm lại và nguy cơ nhu cầu những hàng hóa công nghiệp như dầu, đồng và nhôm cũng giảm.

Riêng ngũ cốc tiếp tục tăng giá lên mức cao mới, kỷ lục của nhiều tháng, bởi hạn hán nghiêm trọng ở vùng Trung Tây nước Mỹ.

Chỉ số 19 nguyên liệu Thomson Reuters-Jefferies CRB kết thúc phiên giao dịch đầu tháng tương đối ổn định.

“Sau niềm hứng khởi hôm thứ 6, 29-6, chúng tôi trở lại băn khoăn bởi còn nhiều yếu tố tiêu cực”, Stanley Dash, nhà phân tích kỹ thuật của TradeStation – hãng chuyên nghiên cứu thị trường vàng – cho biết.

Phiên vừa qua, vàng là một trong những thị trường kết thúc ít thay đổi giá, bởi các nhà đầu tư chờ đợi những dấu hiệu rõ ràng hơn cho quý III.

Dầu thô Mỹ giảm 1,4% hay 1,21 USD xuống 83,75 USD/thùng, sau khi giảm 2,86 USD đầu phiên. Dầu đã tăng giá hơn 9%, hay 7 USD, trong phiên cuối tháng (29-6), sau khi EU đạt được thỏa thuận giúp đỡ Italia và Tây Ban Nha giảm chi phí vay.

Dầu Brent tại London giảm 46 US cent xuống 97,34 USD/thùng, hồi phục từ mức thấp 95,30 USD trong ngày. Thứ 6 tuần trước loại dầu này đã tăng giá trên 6%.

Đồng giảm giá gần 1% tại New York và London. Thứ kim loại rất nhạy cảm với kinh tế này cũng chịu áp lực bởi đồng USD tăng giá so với đồng euro, làm giảm nhu cầu sử dụng đồng từ những thương gia sử dụng đồng tiền chung.

Lĩnh vực sản xuất của Mỹ tháng 6 giảm ngoài dự kiến lần đầu tiên kể từ tháng 7-2009, bởi những đơn đặt hàng mới giảm sút.

Kết quả điều tra hôm 2-7 cho thấy hoạt động sản xuất ở khu vực đồng euro cũng giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 6-2009, trong bối cảnh các nhà máy sắp tới có thể sẽ còn khó khăn hơn, bởi số việc làm bị cắt giảm nhiều nhất trong hai năm rưỡi nay.

Sản xuất ở các nhà máy Trung Quốc và Nhật Bản cũng giảm sâu bởi đơn đặt hàng mới giảm xuống mức thấp nhất 7 tháng, gây lo ngại về triển vọng sức khỏe kinh tế toàn cầu.

“Mặc dù hội nghị Thượng đỉnh EU tuần qua đem lại chút hy vọng, song các số liệu sản xuất PMI mới công bố cho thấy triển vọng kinh tế toàn cầu rất bất ổn”, nhà phân tích kim loại cơ bản Wiktor Bielski của VTB Capital cho biết.

Đồng kỳ hạn 3 tháng tại London giảm xuống 7.625 USD/tấn từ mức 7.690 USD/tấn, sau khi tăng 4,1% trong phiên giao dịch cuối tháng – mức tăng mạnh nhất kể từ 30-11.

Tại New York, hợp đồng kỳ hạn tháng 9 giảm 0,8% hay 2,75 US cent xuống 3,4690 USD/lb.

Ngô đạt mức cao nhất 9 tháng rưỡi, bởi thời tiết ngày càng nóng lên đe dọa sản lượng của Mỹ.

Ngô vụ mới của Mỹ tăng liên tiếp 6 trong số 7 phiên vừa qua, tăng tiếp 21 US cent hay 3,3% lên 6,55-3/4 USD/bushel, mức tăng mạnh nhất kể từ tháng 9.

Đậu tương tăng giá lên mức cao kỷ lục 4 tháng, không chỉ bởi thời tiết xấu ở Mỹ, mà còn bởi dự kiến Trung Quốc sẽ phải tăng cường mua đậu tương vào – sau khi đã mua gần 1,2 triệu tấn đậu tương từ Mỹ.

Đậu tương kỳ hạn tháng 11 tăng 10-1/4 cents, hay 0,7% lên 14,38 USD/bushel, sau khi có lúc đạt 14,55-3/4 USD.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT
Giá
+/-

+/- (%)

Dầu Brent

USD/thùng
98.140
0.800
0.82%

Dầu khí

USD/tấn
857.250
13.500
1.60%

Dầu đốt

US cent/gallon

269.490
1.900
0.71%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu
2.829
0.005
0.18%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

264.350
1.960
0.75%

Dầu thô WTI)

USD/thùng
84.230
0.480
0.57%

Hạt cải WCE

CAD/tấn
601.200
7.500
1.26%

Cacao London

GBP/tấn
1,527.000
1.000
0.07%

Cacao Mỹ

USD/tấn
2,290.000
-1.000
-0.04%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

174.600
3.900
2.28%
Ngô

US cent/bushel

666.000
10.250
1.56%

Bông

US cent/lb

72.240
0.220
0.31%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

117.350
-4.400
-3.61%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

779.250
6.750
0.87%

Lúa mì KCB

US cent/bushel

780.250
3.250
0.42%

Đường thô

US cent/lb

21.400
0.390
1.86%

Đậu tương

US cent/bushel

1,450.000
12.000
0.83%

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

270.000
-0.900
-0.33%

Lúa mạch

US cent/bushel

354.250
0.250
0.07%

Gạo thô

USD/cwt
14.670
-0.010
-0.07%

Khô đậu tương

USD/tấn
422.600
4.700
1.12%

Dầu đậu tương

US cent/lb

53.300
0.260
0.49%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg
1,245.000
15.000
1.22%
Đồng

US cent/lb

351.550
4.650
1.34%

Vàng New York

USD/ounce
1,601.300
3.600
0.23%

Vàng Hongkong

USD/ounce
1,601.600
1.900
0.12%
Bạc New York
USD/ounce
27.700
0.201
0.73%

Bạc Hongkong

USD/ounce
27.690
0.000
0.00%
(T.H – Reuters, Bloomberg)