menu search
Đóng menu
Đóng

Thị trường xuất khẩu hạt điều 7 tháng đầu năm 2020

09:56 03/09/2020

7 tháng đầu năm 2020, cả nước xuất khẩu 266.510 tấn hạt điều, thu về gần 1,73 tỷ USD, giá trung bình 6.488,6 USD/tấn.
Theo tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 7 tháng đầu năm 2020, cả nước xuất khẩu 266.510 tấn hạt điều, thu về gần 1,73 tỷ USD, giá trung bình 6.488,6 USD/tấn, tăng 11,2% về lượng, nhưng giảm 3,4% về kim ngạch và giảm 13,1% về giá so với 7 tháng đầu năm 2019.
Top 3 thị trường lớn nhất tiêu thụ hạt điều của Việt Nam đó là Mỹ, Hà Lan, Trung Quốc; trong đó xuất khẩu sang Mỹ 90.678 tấn, tương đương 592,17 triệu USD, giá 6.530,5 USD/tấn, tăng 13,8% về lượng, tăng 1,1% về kim ngạch nhưng giảm 11,2% về giá so với cùng kỳ năm 2019; chiếm trên 34% trong tổng lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu hạt điều của cả nước.
Xuất khẩu sang Hà Lan tăng rất mạnh 57,8% về lượng, tăng 34,5% về kim ngạch nhưng giảm 14,8% về giá so với cùng kỳ năm 2019, đạt 34.608 tấn, tương đương 229,59 triệu USD, giá 6.634 USD/tấn; chiếm 13% trong tổng lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu hạt điều của cả nước.
Ngược lại, xuuất khẩu sang Trung Quốc lại giảm mạnh cả về lượng, kim ngạch và giá so với cùng kỳ năm 2019, với mức giảm tương ứng 14,9%, 29,7% và 17,5%, đạt 29.306 tấn, tương đương 188,05 triệu USD, giá 6.416,7 USD/tấn; chiếm 11% trong tổng lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu hạt điều của cả nước.
Trước những diễn biến phức tạp của dịch COVID-19, Hiệp hội Điều Việt Nam (Vinacas) vừa quyết định điều chỉnh hạ mục tiêu xuất khẩu hạt điều năm 2020 xuống còn 3,2 tỷ USD thay vì con số 4 tỷ USD đã đặt ra từ cuối năm 2019.
Xuất khẩu 7 tháng đầu năm là khả quan nhưng theo đánh giá của các chuyên gia trong ngành, con số này chưa phản ánh đúng thực tế thị trường do lượng hàng xuất khẩu không có thị trường đích (hàng đưa vào kho ngoại quan chờ xuất) còn rất cao. Ngoài ra, một nghịch lý vẫn diễn ra như mọi năm, đó là ở một số thời điểm, cùng một mã hàng, giá điều nhân tại thị trường trong nước cao hơn 15 - 20% so với giá xuất khẩu, làm cho tình hình kinh doanh của một số doanh nghiệp, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp thuần thương mại xuất khẩu gặp nhiều khó khăn.
Theo phân tích của Vinacas, nhu cầu tiêu dùng nhân điều toàn cầu từ nay đến cuối năm 2020 rất khó dự báo, bởi hạt điều không phải là sản phẩm thiết yếu, không thể thay thế trong bối cảnh dịch COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp. Thực tế, tiêu thụ hạt điều trong nhà hàng, các cơ sở lưu trú, khách sạn, du lịch đã giảm mạnh do giãn cách xã hội.
Vinacas đưa ra hai kịch bản cho ngành điều trong những tháng cuối năm theo chiều hướng trái ngược. Trường hợp khả quan là đại dịch COVID -19 được ngăn chặn, chuỗi cung ứng toàn cầu hoạt động bình thường trở lại giúp cải thiện nhu cầu tiêu thụ tại thị trường Trung Quốc. Cùng với đó xu hướng tiêu dùng sản phẩm có nguồn gốc thực vật tiếp tục gia tăng trong và sau mùa dịch tại thị trường Mỹ và châu Âu.
Cộng với việc trong thời gian qua nhiều cơ sở chế biến điều quy mô nhỏ và vừa ở cả Việt Nam và Ấn Độ giảm công suất, ngưng hoạt động làm cho lượng hàng cung ứng ra thị trường giảm có thể giúp giá điều có thể sớm tăng trở lại theo quy luật cung - cầu trên thị trường. Khi đó, kim ngạch xuất khẩu nhân điều các loại cả năm có thể được cải thiện, chỉ giảm nhẹ so với mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, với những diễn biến phức tạp hiện nay các doanh nghiệp cho rằng, khả năng này rất khó xảy ra. Cụ thể, làn sóng COVID-19 lần thứ hai đang xuất hiện ở nhiều quốc gia và chưa có giải pháp khống chế hiệu quả, dẫn tới những tác động tiêu cực không thể lường trước được.
Theo đó, nhu cầu tiêu dùng của thị trường Trung Quốc được dự báo tiếp tục ảm đạm, kể cả ở giai đoạn cao điểm cuối năm. Nhu cầu tiêu dùng thị trường nội địa Ấn Độ cũng bị ảnh hưởng, đặc biệt trong giai đoạn diễn ra những lễ hội quan trọng.
Không chỉ ảnh hưởng tới kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu điều thô nguyên liệu cũng bị tác động do dịch COVID-19. Ngoài việc thường xuyên bị trì hoãn giao hàng, chất lượng điều thô châu Phi năm nay cũng giảm mạnh so với niên vụ trước. Việc Chính phủ Bờ Biển Ngà thay đổi chính sách hỗ trợ cho người nông dân trước thềm bầu cử cũng khiến cho việc nhập điều thô nguyên liệu tiềm ẩn nhiều rủi ro. Hơn nữa, mặc dù giá nhập khẩu điều thô tiếp tục giảm 12% so với cùng kỳ năm 2019 nhưng theo các doanh nghiệp, tỷ lệ giảm giá của hạt điều thô nhìn chung thấp hơn nhiều so với tỷ lệ giảm giá của điều nhân trong cùng một thời điểm. Điều này dẫn đến việc nhiều doanh nghiệp không thể cân đối giá thành sản xuất, chế biến, buộc phải tạm ngừng hoạt động.
Xuất khẩu hạt điều 7 tháng đầu năm 2020
(Tính toán theo số liệu công bố ngày 12/8/2020 của TCHQ)

 

Thị trường

7 tháng đầu năm 2020

So với cùng kỳ năm 2019 (%)

Tỷ trọng (%)

Lượng (tấn)

Trị giá (USD)

Lượng (tấn)

Trị giá (USD)

Lượng

Trị giá

Tổng cộng

266.510

1.729.287.783

11,15

-3,4

100

100

Mỹ

90.678

592.167.752

13,77

1,08

34,02

34,24

Hà Lan

34.608

229.592.942

57,75

34,47

12,99

13,28

Trung Quốc đại lục

29.306

188.047.311

-14,87

-29,74

11

10,87

Đức

11.796

78.570.349

21,67

4,22

4,43

4,54

Australia

9.072

56.318.389

5,11

-11,85

3,4

3,26

Anh

8.961

53.487.948

-6,7

-20,67

3,36

3,09

Canada

7.272

51.129.956

5,82

-5,51

2,73

2,96

Thái Lan

5.202

33.297.470

-6,52

-17,84

1,95

1,93

Pháp

3.742

27.979.393

28,9

9,08

1,4

1,62

Italia

4.811

25.836.363

0,08

-7,47

1,81

1,49

Nhật Bản

3.727

25.518.388

89,09

72,21

1,4

1,48

Israel

3.701

25.307.900

-9,04

-21,55

1,39

1,46

Nga

3.236

19.452.944

-27,64

-41,26

1,21

1,12

Tây Ban Nha

2.537

17.483.250

-21,36

-28,57

0,95

1,01

Bỉ

2.263

15.816.263

-20,4

-33,28

0,85

0,91

Saudi Arabia

2.362

15.654.628

9,4

7,08

0,89

0,91

Ấn Độ

2.722

15.223.646

54,48

61,05

1,02

0,88

Đài Loan (TQ)

1.938

14.486.691

44,73

33,38

0,73

0,84

Ai Cập

1.650

12.716.087

25,67

20,88

0,62

0,74

New Zealand

1.811

10.864.770

0,17

-14,94

0,68

0,63

Hồng Kông (TQ)

1.151

10.364.633

-11,12

-20,24

0,43

0,6

Iraq

1.241

9.446.992

56,3

45,09

0,47

0,55

U.A.E

1.467

7.579.363

24,32

2,22

0,55

0,44

Hy Lạp

1.047

7.087.613

74,5

58,03

0,39

0,41

Ukraine

858

5.703.893

30,4

16,25

0,32

0,33

Na Uy

569

4.037.524

10,49

3,78

0,21

0,23

Philippines

856

3.775.199

1,54

-28,77

0,32

0,22

Nam Phi

446

2.580.322

0,45

-15,55

0,17

0,15

Singapore

329

2.044.687

-3,24

-17,72

0,12

0,12

Kuwait

96

816.715

-4

-8,59

0,04

0,05

Pakistan

148

681.210

410,34

178,35

0,06

0,04

Nguồn:VITIC