Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm xuống mức thấp nhất 2 tháng bởi lại dấy lên lo ngại về về tình trạng thừa cung.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 8/2016 trên sàn New York giảm 65 cent, tương ứng 1,4%, xuống 44,76 USD/thùng, thấp nhất kể từ 10/5. Giá dầu Brent giao tháng 9/2016 trên sàn London giảm 51 cent, tương đương 1,1%, xuống 46,25 USD/thùng, thấp nhất kể tử 10/5.
Dầu thô và các loại hàng hóa khác - giao dịch bằng USD - thường diễn biến trái chiều với đồng bạc xanh. Phiên 11/7 USD tăng giá với Chỉ số Đôla Wall Street Journal, theo dõi USD với 16 đồng tiền trong giỏ tiền tệ, tăng 0,5%, gây áp lực lên giá dầu.
Đà giảm mạnh tuần trước của giá dầu cho thấy thị trường vẫn lo ngại về tình trạng thừa cung và đà tăng lớn nhất kể từ khủng hoảng tài chính “mong manh” đến mức nào, theo các nhà phân tích. Giá dầu đã mất hơn 7%, ghi nhận tuần giảm thứ 3 trong 4 tuần qua và xuống thấp nhất 2 tháng, chủ yếu do nguồn cung tăng mạnh.
Thị trường xăng và diesel cũng rơi vào tình trạng dư cung. Các nhà phân tích đang cảnh báo về các dấu hiệu cho thấy nhu cầu yếu kém tại châu Á. Trong khi đó, số giàn khoan tại Mỹ tiếp tục tăng, cho thấy các nhà sản xuất dầu thô nước này sẵn sàng bơm thêm dầu, chấm dứt thời kỳ sản lượng giảm - đã giúp giá dầu tăng trong thời gian vừa qua.
Sản lượng dầu thô của Nigeria và Libya cũng đang hồi phục sau đợt gián đoạn nguồn cung gần đây, cùng với đà tăng sản lượng của Arab Saudi và Iran đưa sản lượng dầu thô của OPEC tăng thêm 300.000 thùng/ngày lên cao nhất 8 năm ở 32,7 triệu thùng/ngày.
Về nhu cầu, Morgan Stanley nhận định, các nhà máy lọc dầu trên khắp thế giới đang sản xuất quá nhiều. Nếu thị trường sản phẩm lọc dầu trở nên thừa cung, nhu cầu dầu thô sẽ giảm.
Số phận giá dầu gắn chặt với các thị trường khác, nhất là USD, kể từ khi người dân Anh bỏ phiếu ủng hộ việc ra khỏi EU (Brexit) hôm 23/6 vừa qua. Brexit đã thổi bùng lên sự bất ổn về triển vọng tăng trưởng toàn cầu, kéo giảm tầm quan trọng của xu hướng cung-cầu dầu thô trong ngắn hạn.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng giảm sau số liệu việc làm của Mỹ tốt hơn dự đoán và triển vọng kích thích tiền tệ, USD tăng.
Giá vàng giao ngay giảm 0,8% xuống 1.355,5 USD/ounce. Giá vàng giao tháng 8/2016 giảm 0,1% xuống 1.356,6 USD/ounce.
Theo các nhà phân tích, trái phiếu Mỹ lập đỉnh mới và báo cáo việc làm phi nông nghiệp tốt hơn dự đoán của Mỹ đã làm tăng tỷ lệ dự đoán Fed sẽ nâng lãi suất vào cuối năm nay. Theo số liệu của CME FedWatch, tỷ lệ dự đoán Fed nâng lãi suất vào tháng 12 hiện là 24%.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,09% lên 20,28 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,7% lên 1.103,8 USD/ounce và giá palladium tăng 1,6% lên 625 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê đồng loạt tăng mạnh. Tại London, robusta tăng 32-35 USD/tấn, trong khi đó tại New York, arabica tăng 4,9-5,2 cent/lb.
Nhà phân tích Brazil Safras & Mercado - từng dự báo sản lượng cà phê của Brazil đạt 56,4 triệu bao - đã hạ dự báo sản lượng cà phê Brazil xuống 54,9 triệu bao, giảm 2,66% so với dự báo trước đó và cho biết thêm tính đến thứ Ba 5/7, nông dân nước này đã thu hoạch được 52% diện tích cà phê vụ mới.
Trái với các bản tin dự báo thời tiết tại Ấn Độ cho thấy mùa mưa tại nước này đang đến và lượng mưa cao hơn mức trung bình - tin tốt đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp, Ủy ban Cà phê Ấn Độ cho biết, sản lượng cà phê của nước này niên vụ tới sẽ bị ảnh hưởng xấu do thiếu mưa và giảm 8% so với vụ trước xuống còn 5,33 triệu bao với tỷ lệ Arabica/Robusta là 31,25/68,75.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
44,76
|
-0,65
|
-1,4%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
46,25
|
-0,51
|
-1,1%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
29.400,00
|
+450,00
|
+1,55%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,71
|
+0,01
|
+0,30%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
138,60
|
+0,25
|
+0,18%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
142,14
|
+0,51
|
+0,36%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
415,00
|
-0,25
|
-0,06%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
42.120,00
|
+450,00
|
+1,08%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.356,90
|
+0,30
|
+0,02%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.472,00
|
+43,00
|
+0,97%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
20,36
|
+0,05
|
+0,25%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
67,20
|
+0,90
|
+1,36%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.094,10
|
-7,50
|
-0,68%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
620,30
|
-4,03
|
-0,65%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
215,65
|
+0,90
|
+0,42%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
4.749,00
|
+38,50
|
+0,82%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.652,00
|
-11,00
|
-0,66%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.140,00
|
-2,00
|
-0,09%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
17.875,00
|
+35,00
|
+0,20%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
349,25
|
+1,00
|
+0,29%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
431,75
|
+1,25
|
+0,29%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
205,75
|
0,00
|
0,00%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
10,77
|
+0,08
|
+0,75%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.059,50
|
+4,50
|
+0,43%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
367,90
|
+0,50
|
+0,14%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
30,87
|
+0,12
|
+0,39%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
471,60
|
+1,10
|
+0,23%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.101,00
|
+4,00
|
+0,13%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
149,30
|
+5,20
|
+3,61%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
20,28
|
+0,71
|
+3,63%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
178,00
|
-9,95
|
-5,29%
|
Bông
|
US cent/lb
|
68,04
|
+0,26
|
+0,38%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
322,20
|
+3,00
|
+0,94%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
153,80
|
+3,50
|
+2,33%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,58
|
-0,01
|
-0,57%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet