menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG sáng 13/7: Giá kẽm và nickel cao nhất hơn 9 tháng

09:11 13/07/2016

Vinanet - Thị trường thế giới phiên giao dịch 12/7 (kết thúc vào rạng sáng 13/7 giờ VN) chứng kiến giá dầu và kim loại cơ bản tăng mạnh trong khi cà phê sụt giảm. Lo ngại nguồn cung thắt chặt đang tác động tới thị trường năng lượng và kim loại cơ bản. Kỳ vọng Chính phủ Anh sẽ tăng cường kích thích kinh tế cũng tác động lên thị trường hàng hóa.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng trở lại sau dự đoán nguồn cung dầu của các nước ngoài OPEC năm nay sẽ giảm mạnh hơn dự kiến.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 8/2016 trên sàn New York tăng 2,04 USD, tương ứng 4,6%, lên 46,80 USD/thùng. Giá dầu Brent giao tháng 9/2016 trên sàn London tăng 2,22 USD, tương đương 4,8%, lên 48,47 USD/thùng.
OPEC - chiếm hơn 1/3 nguồn cung dầu thô toàn cầu - trong báo cáo hàng tháng công bố ngày 12/7 cho biết, sản lượng dầu thô của các nước ngoại khối năm nay sẽ giảm 880.000 thùng/ngày, chủ yếu sản lượng dầu của Canada giảm mạnh do ảnh hưởng tiêu cực của nạn cháy rừng và sản lượng dầu thô của Mỹ giảm.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) ngày 12/7 cũng dự báo sản lượng dầu thô của các nước ngoài OPEC năm nay sẽ giảm mạnh hơn so với dự kiến trước đó.
Giới đầu tư đang chờ số liệu dầu lưu kho của Mỹ do EIA công bố vào thứ Tư 13/7. Các nhà phân tích trong khảo sát của Wall Street Journal dự đoán lượng dầu lưu kho của Mỹ trong tuần kết thúc vào 8/7 giảm 2,6 triệu thùng, nguồn cung xăng giảm 900.000 thùng trong khi dự trữ sản phẩm chưng cất không đổi.
Giá dầu đã tăng trong những tuần gần đây do đồn đoán sản lượng dầu thô của Mỹ giảm, nhu cầu toàn cầu tăng lên và gián đoạn nguồn cung bất ngờ tại nhiều khu vực trên thế giới, kéo giảm tình trạng thừa cung toàn cầu.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tiếp tục giảm do lo ngại về Brexit lắng dịu và hy vọng tăng cường kích thích kinh tế khiến USD và chứng khoán đều tăng.
Giá vàng giao ngay giảm 1,6% xuống 1.332,86 USD/ounce, giá vàng giao tháng 8/2016 trên sàn Comex giảm 1,6% xuống 1.335,3 USD/ounce.
Theo các nhà phân tích, căng thẳng tại Anh đang dần lắng dịu khi nước này sớm có Thủ tướng mới - bà Theresa May sẽ thay thế ông David Cameron. Với việc bảng Anh tăng giá trở lại, nhu cầu vàng và các tài sản trú ẩn an toàn khác sẽ giảm.
Các chỉ số chủ chốt của chứng khoán Mỹ lập kỷ lục trong phiên 12/7 khi thị trường lạc quan về kinh tế thế giới và kết quả kinh doanh tích cực của Alcoa làm tăng khẩu vị tài sản rủi ro trong khi thị trường chứng khoán châu Âu tăng phiên thứ 4 liên tiếp.
Việc giới đầu tư chốt lời và chứng khoán Mỹ lập kỷ lục mới cũng gia tăng áp lực lên giá vàng.
Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) sẽ không nới lỏng chính sách tiền tệ trong phiên họp vào tuần tới, theo kết quả cuộc khảo sát của Reuters.
Giá vàng đã tăng khoảng 100 USD/ounce kể từ khi người Anh bỏ phiếu ủng hộ việc ra khỏi EU, khiến giới đầu tư lo ngại và đổ tiền vào tài sản trú ẩn an toàn.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,65% xuống 20,13 USD/ounce, giá bạch kim giảm 1,14% xuống 1.087 USD/ounce trong khi giá palladium tăng 1% lên 627,5 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá kẽm chạm mức cao nhất trong vòng 10 tháng, nickel cao nhất kể từ tháng 10 năm ngoái do các nhà đầu tư đồn đoán Thủ tướng mới của Anh sẽ tăng cường các biện pháp kích thích kinh tế.
Các nhà đầu tư đang tích cực mua kim loại trên sàn giao dịch kim loại London bởi cho rằng bức tranh cung – cầu đã thay đổi. Việc nhiều mỏ bị đóng cửa sẽ khiến nguồn cung suy giảm.
Giá kẽm tăng 2,5% lên 2.193 USD/tấn, cao nhất kể từ tháng 6 năm ngoái. Từ đầu năm kim loại này đã tăng 36%.
Nikel tăng giá mạnh nhất trong số các kim loại, tăng 4,4% lên 10.490 USD/tấn, cao nhất kể từ cuối tháng 10 và là phiên tăng giá thứ 3 liên tiếp, cũng bởi lo ngại nguồn cung khan hiếm. Nikel đã tăng giá 10% kể từ khi Tổng thống mới của Philippines đắc cử ngày 1/7.
Goldman Sachs đã nâng dự báo giá nickel thêm 29% trong vòng 3 tháng tới lên 11.000 USD/tấn, còn kẽm thêm 15%.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê đồng loạt sụt giảm sau mấy phiên tăng mạnh. Cà phê robusta trên sàn London giảm 12-20 USD/tấn, trong khi arabica trên sàn New York giảm 1,85-1,9 cent/lb.
Đà hồi phục của đồng nội tệ real Brazil đã khiến chênh lệnh giữa giá Arabica và Robusta lên cao nhất 14 năm.
Tuy nhiên, nếu xét về sản lượng, giá Robusta trong thời gian tới có thể sẽ có diễn biến tốt hơn so với Arabica do lo ngại khô hạn ảnh hưởng đến sản lượng cà phê của Việt Nam - nước sản xuất Robusta lớn nhất thế giới - và một số nước sản xuất chủ chốt khác.
Commerzbank cho biết, thời tiết khô hạn tại các vùng trồng Robusta chủ chốt của Brazil khiến sản lượng được dự đoán tiếp tục giảm, trong khi tình trạng thiếu hụt Robusta có thể trầm trọng hơn do đợt khô hạn kéo dài tại các nước sản xuất chủ chốt khác như Việt Nam, Indonesia và Ấn Độ.
Xuất khẩu cà phê của Brazil, cả Arabica và Robusta, đều đang có dấu hiệu giảm, trong đó, xuất khẩu Robusta trong tháng 5 giảm 83% xuống 66,868 tấn trong khi xuất khẩu Arabica tháng 6 giảm 4,8% xuống 2,11 triệu tấn, theo số liệu của Cecafe.
Giá hàng hóa thế giới

 

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

46,80

+2,4

+4,6%

Dầu Brent

USD/thùng

48,47

+2,2

+4,8%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

30.480,00

+1.130,00

+3,85%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,74

+0,00

+0,04%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

140,60

-2,41

-1,69%

Dầu đốt

US cent/gallon

144,41

-1,91

-1,31%

Dầu khí

USD/tấn

423,00

-0,50

-0,12%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

43.060,00

+1.050,00

+2,50%

Vàng New York

USD/ounce

1.331,60

-3,70

-0,28%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.442,00

-23,00

-0,52%

Bạc New York

USD/ounce

20,08

-0,10

-0,48%

Bạc TOCOM

JPY/g

67,10

-0,10

-0,15%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

1.086,05

-6,60

-0,60%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

624,25

-3,67

-0,58%

Đồng New York

US cent/lb

221,80

+0,50

+0,23%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

4.869,00

+120,00

+2,53%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

1.676,00

+24,00

+1,45%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

2.193,50

+53,50

+2,50%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

17.990,00

+115,00

+0,64%

Ngô

US cent/bushel

352,25

0,00

0,00%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

437,25

-1,25

-0,29%

Lúa mạch

US cent/bushel

201,50

-4,25

-2,07%

Gạo thô

USD/cwt

10,80

+0,12

+1,12%

Đậu tương

US cent/bushel

1.085,00

-2,00

-0,18%

Khô đậu tương

USD/tấn

375,20

-0,80

-0,21%

Dầu đậu tương

US cent/lb

31,31

-0,01

-0,03%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

473,10

-2,30

-0,48%

Cacao Mỹ

USD/tấn

3.114,00

+13,00

+0,42%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

147,40

-1,90

-1,27%

Đường thô

US cent/lb

19,72

-0,56

-2,76%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

176,80

-1,20

-0,67%

Bông

US cent/lb

71,60

+0,82

+1,16%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

324,50

+2,30

+0,71%

Cao su TOCOM

JPY/kg

157,40

+4,70

+3,08%

Ethanol CME

USD/gallon

1,59

+0,01

+0,76%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg