Trên thị trường năng lượng, giá dầu quay đầu giảm trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế Trung Quốc và châu Âu có tín hiệu ảm đạm và dự trữ dầu của Mỹ gia tăng.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc giảm 1,82 USD (3%) xuống 59,48 USD/thùng, dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 1,87 USD (3,3%) xuống 55,23 USD/thùng, sau khi tăng 4% trong phiên trước.
Giá dầu giảm trước những lo ngại tăng trưởng kinh tế toàn cầu sụt giảm do căng thẳng thương mại Mỹ - Trung, nước Anh rời khỏi Liên minh châu Âu (hay còn gọi là Brexit) khiến kinh tế châu Âu gặp khó khăn trong thời gian tới. Tăng trưởng của Khu vực đồng euro ( Eurozone) đã chậm lại còn 0,2% trong quý II/2019, sau khi ghi nhận mức tăng 0,4% trong quý I/2019.
Cục Thống kê quốc gia Trung Quốc (NBS) ngày 14/8 công bố dữ liệu chính thức cho thấy, nền kinh tế Trung Quốc bộc lộ thêm điểm yếu trong tháng 7/2019. Sản lượng công nghiệp - chỉ số kinh tế quan trọng của Trung Quốc - trong tháng 7/2019 tăng 4,8% so với cùng kỳ năm ngoái, song thấp hơn đáng kể so với mức tăng 6,3% trong tháng 6/2019, đánh dấu mức tăng yếu nhất kể từ năm 2002. Chỉ số này cũng thấp hơn nhiều so với mức dự báo tăng 6% mà các nhà kinh tế đưa ra trong cuộc thăm dò mới đây của hãng tin Bloomberg.
Trong báo cáo hàng tuần Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho biết, lượng dự trữ dầu của nước này ở mức 440,5 triệu thùng, tăng khoảng 3% so với mức trung bình của 5 năm vào thời điểm này.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng giữa bối cảnh mối lo ngại về suy thoái kinh tế toàn cầu thúc đẩy các nhà đầu tư mua vào các tài sản an toàn.
Cuối phhiên giao dịch, vàng giao ngay tăng 1,1% lên 1.517,88 USD/ounce, sau khi giảm tới 2% trong phiên trước đó; vàng giao sau tăng 0,9% lên 1.527,80 USD/ounce.
Đường cong lãi suất (đường biểu diễn mối quan hệ giữa lãi suất ngắn hạn và dài hạn) của trái phiếu Chính phủ Mỹ lần đầu tiên đảo ngược vào năm 2007, khi cuộc khủng hoảng thế chấp dưới chuẩn của Mỹ bắt đầu bùng phát. Sự tái diễn của hiện tượng này báo hiệu nền kinh tế lớn nhất thế giới có thể đang tiến tới tình trạng suy thoái.
Bên cạnh đó, số liệu yếu kém của kinh tế Eurozone cũng tạo ra là nhân tố hỗ trợ giá vàng. Cơ quan Thống kê châu Âu (Eurostat) ngày 14/8 công bố số liệu chính thức cho thấy, tăng trưởng kinh tế của Eurozone đã chậm lại còn 0,2% trong quý II/2019, sau khi ghi nhận mức tăng 0,4% trong quý I/2019.
Cơ quan Thống kê Liên bang Đức (Destatis) cũng công bố số liệu cho hay kinh tế Đức đã giảm 0,1% trong quý II/2019, sau khi tăng 0,4% trong quý I/2019. Jeff Klearman, nhà quản lý danh mục đầu tư tại GranShares, nhận định với việc các nền kinh tế tại Eurozone thông báo tăng trưởng âm, nguy cơ suy thoái kinh tế đang ngày càng tăng. Tình hình này càng làm gia tăng đồn đoán Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ cắt giảm lãi suất.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 1,7% lên 17,25 USD/ounce, sau khi có lúc đạt mức cao nhất kể từ tháng 1/2018, bạch kim giảm 0,7% xuống 845,89 USD/ounce, trong khi palađi giảm 1,7% xuống 1.430,56 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm mạnh sau khi tăng trưởng sản lượng công nghiệp ở Trung Quốc, nước tiêu thụ kim loại lớn nhất, giảm xuống mức thấp hơn 17 năm, làm suy yếu triển vọng nhu cầu. Giá đồng kỳ hạn 3 tháng tại Sàn giao dịch kim loại Luân Đôn (LME) giảm 1,1% còn 5.765 USD/tấn, chạm gần mức thấp nhất 2 năm là 5.640 USD đạt được hồi đầu tháng.
Giá thép kỳ hạn tại Trung Quốc tiếp tục tăng cao do một số lượng lớn các nhà sản xuất thép đã quyết định giảm sản lượng với nỗ lực hỗ trợ xu hướng giá yếu trong những tuần gần đây do nhu cầu yếu và tồn kho cao. Giá thép thanh cốt thép trên Sàn Thượng Hải giao tháng 10, đã tăng 1,8% lên 3.740 CNY(535,30 USD)/tấn, mức cao nhất trong gần một tuần. Giá thép cuộn cán nóng tăng 1,5% lên 3.732 CNY/tấn, ngày tăng thứ 3 liên tiếp.
Sản lượng thép thô trong tháng 7 của Trung Quốc đã giảm trong tháng thứ hai liên tiếp khi các nhà máy thép cắt giảm sản lượng trong bối cảnh các biện pháp môi trường tăng cao và giá nguyên liệu cao kỷ lục.
Trên thị trường nông sản, giá ngô và đậu tương kỳ hạn tại Mỹ đều sụt giảm do lo ngại kinh tế suy yếu toàn cầu gây giảm nhu cầu tiêu thụ. Cụ thể, giá ngô tại Chicago giảm 6-1/4 UScent xuống còn 3,70-1/4 USD/bushel, mức thấp nhất kể từ ngày 16/5.Giá đậu tương giao tháng 11 đã giảm 11 cent/bushel còn 8,78 USD/bushel.
Giá đường và cà phê giảm do lo ngại về nguồn cung dư thừa và đồng Real Brazil suy yếu. Giá đường thô giao tháng 10/2019 giảm 0,11 cent, tương đương 0,9%, xuống còn 11,61 Uscent/lb. Giá đường trắng giao tháng 10/2019 đã giảm 2,50 USD, tương đương 0,8%, xuống còn 314,70 USD/tấn.
Đồng nội tệ Brazil giảm mạnh so với đồng bạc xanh do chịu áp lực từ cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Argentina, đã khuyến khích các nhà sản xuất bán cà phê tính theo USD.
Giá cà phê arabica giao tháng 12/2019 giảm 1,8 cent, tương đương 1,8%, xuống còn 0,979 USD/lb. Trong khi giá cà phê Robusta giao tháng 11 tăng 6 USD, tương đương 0,5%, đạt 1.338 USD/tấn.
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng lên mức cao nhất trong 4,5 tháng do kỳ vọng xuất khẩu mạnh hơn. Giá dầu cọ giao tháng 10 trên Sàn Bursa Malaysia đã tăng 0,3% đạt 2.219 ringgit (529,97 USD)/tấn, ngày tăng thứ 7 liên tiếp.
Indonesia, nước sản xuất dầu cọ lớn nhất thế giới, đang tăng cường chương trình diesel sinh học trong nước để tăng mức tiêu thụ, giảm dự trữ và đẩy giá lên cao.
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo đã tăng lên do các nhà đầu tư tăng cường mua vào sau khi Mỹ cho biết sẽ trì hoãn đánh thuế quan đối với một số sản phẩm của Trung Quốc, làm giảm nỗi lo về nhu cầu tiêu thụ từ Trung Quốc. Tại Tokyo, giá cao su giao tháng 1/2020 tăng 2 JPY, tương đương 1,2%, đạt 168,6 JPY(1,58 USD)/kg. Giá cao su TSR 20 giao tháng 2/2020 tăng 2,2% đạt 146,0 JPY/ kg.
Tại Thượng Hải, giá cao su giao tháng 9 đã tăng 100 CNY đạt 11.525 CNY(1.643 USD)/tấn. Giá cao su TSR20 đã tăng 140 CNY đạt 9.995 CNY/tấn. Tại Singapore, giá cao su giao tháng 9 tăng 1,3% đạt 131,0 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
54,98
|
-0,25
|
-0,45%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
59,08
|
-0,40
|
-0,67%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
36.060,00
|
-1.280,00
|
-3,43%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,16
|
+0,02
|
+0,93%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
166,39
|
-1,19
|
-0,71%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
183,35
|
-1,02
|
-0,55%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
566,50
|
+5,50
|
+0,98%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
54.140,00
|
-1.320,00
|
-2,38%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.532,00
|
+4,20
|
+0,27%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
5.157,00
|
+35,00
|
+0,68%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,31
|
+0,03
|
+0,17%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
59,10
|
+0,90
|
+1,55%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
845,57
|
+0,05
|
+0,01%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.431,93
|
+4,04
|
+0,28%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
259,50
|
+0,30
|
+0,12%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
5.765,00
|
-63,50
|
-1,09%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.775,00
|
-10,00
|
-0,56%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.256,00
|
-63,00
|
-2,72%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
17.125,00
|
+25,00
|
+0,15%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
373,75
|
+3,50
|
+0,95%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
481,00
|
+2,75
|
+0,57%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
272,00
|
+0,25
|
+0,09%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,74
|
-0,04
|
-0,34%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
883,00
|
+5,00
|
+0,57%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
301,20
|
+1,30
|
+0,43%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
29,63
|
+0,08
|
+0,27%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
449,30
|
-0,90
|
-0,20%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.204,00
|
-2,00
|
-0,09%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
97,90
|
-1,80
|
-1,81%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
11,61
|
-0,11
|
-0,94%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
98,80
|
0,00
|
0,00%
|
Bông
|
US cent/lb
|
59,43
|
-0,14
|
-0,23%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
348,10
|
-6,10
|
-1,72%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
166,50
|
-2,10
|
-1,25%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,25
|
-0,03
|
-2,56%
|
Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters