Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm tiếp do lo ngại về tình trạng dư dôi nguồn cung ứng dầu mỏ trên toàn cầu.
Đóng cửa phiên giao dịch, giá dầu ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 7/2017 trên sàn New York giảm 0,27 USD xuống 44,46 USD/thùng, trong phiên có lúc giá thấp trong 6 tháng là 44,32 USD/thùng; dầu Brent biển Bắc tại London giao tháng 8/2017 giảm 0,08 USD xuống 46,92 USD/thùng.
Thị trường đang chịu tác động xấu từ tình trạng nguồn dự trữ năng lượng toàn cầu ở mức cao, với việc nhiều khu vực trên thế giới ghi nhận mức dự trữ gần cao kỷ lục.
Mới đây, Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết dự trữ dầu của Mỹ đã giảm 1,7 triệu thùng trong tuần vừa qua xuống còn 511,5 triệu thùng. Tuy nhiên, lượng dự trữ xăng lại tăng 2,1 triệu thùng lên 242,4 triệu thùng, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm ngoái.
Thị trường cũng hoài nghi về khả năng của OPEC trong việc kiểm soát nguồn cung, dù các thành viên của khối đã đồng ý siết chặt hạn ngạch nhằm hạn chế tình trạng dư dôi nguồn cung. Tuy nhiên, thị trường cũng hoài nghi về khả năng của OPEC trong việc thực hiện thỏa thuận cắt giảm sản lượng.
Về thông tin liên quan, Nga tiếp tục duy trì vị trí quán quân về xuất khẩu dầu mỏ và khí đốt, chiếm tới 13,2% lượng xuất khẩu dầu mỏ thế giới và 18,9% lượng xuất khẩu khí đốt thế giới trong năm 2016. Báo cáo Thống kê năng lượng thế giới của Tập đoàn dầu mỏ BP (Anh) mới được công bố cho biết, xuất khẩu dầu mỏ của Nga trong năm qua tăng 2,1%, đạt mức 8,6 triệu thùng/ngày, trong khi xuất khẩu khí đốt tăng 6,1%, đạt mức 204,8 tỷ m3. Nga xuất khẩu 77% lượng dầu mỏ khai thác được, 33% khí đốt và 55% than đá. Báo cáo của BP còn cho thấy sản lượng khai thác dầu mỏ tại Nga tăng năm thứ 8 liên tiếp, trong đó năm 2016 đã thiết lập mức kỷ lục mới thời hậu Xô viết với 11,2 triệu thùng/ngày. Năm 2016, sản lượng khai thác dầu mỏ của Nga tăng 2,2% (mức trung bình trong vòng 10 năm qua là 1,4%) và chiếm 12,2% lượng khai thác trên thế giới.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tiếp tục giảm xuống mức thấp nhất trong 3 tuần, do đồng USD tăng giá.
Tại New York, giá vàng giao ngay có thời điểm rơi xuống 1.251,18 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ ngày 24/5; giá vàng giao tháng 8 giảm 1,7% xuống đóng cửa ở mức 1.254,60 USD/ounce.
Theo các chuyên gia, đà tăng của đồng bạc xanh đã gây sức ép đối với giá vàng, giữa bối cảnh số liệu khả quan về thị trường lao động Mỹ đang làm gia tăng đồn đoán Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ tiếp tục nâng lãi suất vào cuối năm nay. Tuy nhiên, đà giảm của giá vàng được kiềm chế bởi một số thông tin về sự bất ổn trên toàn cầu, trong đó có việc Tổng thống Mỹ Donald Trump đang bị đang bị công tố viên đặc biệt Robert Mueller điều tra về khả năng cản trở công lý.
Ngày 14/6, Fed đã quyết định tăng lãi suất ngắn hạn thêm 0,25 điểm phần trăm, qua đó nâng biên độ lãi suất hiện nay lên mức 1-1,25%.
Giới chức Fed cũng thông báo ngân hàng này dự kiến nâng lãi suất thêm một lần nữa trong năm 2017, song không cho biết thời điểm. Trước tình hình này, Capital Economics dự báo vào cuối năm nay, giá vàng có thể rơi xuống 1.100 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê robusta tăng lên mức cao kỷ lục 2 tháng do các thương gia tập trung theo dõi về tình trang khan hiếm nguồn cung ở châu Á và mức cộng hợp đồng giao tháng 11 tăng phiên thứ 6 liên tiếp.
Robusta giao tháng 9 giá tăng 49 USD tương đương 2,4% lên 2.105 USD/tấn vào lúc đóng cửa, gần chạm mức cao nhất trong phiên là 2.110 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 21/4.
Với arabica, hợp đồng giao tháng 9 giá tăng 0,3 US cent tương đương 0,2% lên 1,2805 USD/lb.
Với mặt hàng đường, đường thô giao tháng 7 giá giảm 0,15 US cent tương đương 1,1% xuống 13,47 US cent/lb, gần chạm mức thấp nhất 16 tháng là 13,36 US cent của phiên giao dịch trước.
Công ty dầu mỏ quốc gia Brazil Petroleo Brasileiro đã hạ hơn nữa giá trung bình đối với xăng và diesel, khiến các nhà sản xuất ethanol sẽ giảm tỷ lệ mía dùng sản xuất ethanol và tăng tỷ lệ mía trong sản xuất đường.
Đường trắng giao tháng 8 giá giảm 2,3 USD tương đương 0,6% xuống 399,30 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
44,46
|
-0,27
|
-0,29%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
46,92
|
0,08
|
0,10%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
32.650,00
|
+370,00
|
+1,15%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,06
|
+0,00
|
+0,03%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
144,36
|
+0,79
|
+0,55%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
141,67
|
+0,21
|
+0,15%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
420,00
|
+1,00
|
+0,24%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
46.320,00
|
+280,00
|
+0,61%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.255,80
|
-1,20
|
-0,10%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.468,00
|
+24,00
|
+0,54%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,75
|
-0,03
|
-0,17%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
60,00
|
+0,10
|
+0,17%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
924,76
|
-0,35
|
-0,04%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
871,57
|
-0,54
|
-0,06%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
257,35
|
+0,80
|
+0,31%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
5.661,00
|
-38,00
|
-0,67%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.872,00
|
-10,50
|
-0,56%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.505,00
|
+11,00
|
+0,44%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
19.500,00
|
+275,00
|
+1,43%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
379,50
|
0,00
|
0,00%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
458,00
|
+4,25
|
+0,94%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
264,25
|
+3,00
|
+1,15%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,45
|
-0,03
|
-0,26%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
949,00
|
+5,00
|
+0,53%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
307,90
|
+1,40
|
+0,46%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
33,35
|
+0,11
|
+0,33%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
488,10
|
+2,20
|
+0,45%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.069,00
|
-6,00
|
-0,29%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
128,05
|
+0,30
|
+0,23%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
13,68
|
-0,17
|
-1,23%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
142,75
|
+2,50
|
+1,78%
|
Bông
|
US cent/lb
|
69,63
|
+0,16
|
+0,23%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
365,50
|
-2,50
|
-0,68%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
203,00
|
+3,60
|
+1,81%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,57
|
+0,02
|
+1,55%
|
- Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet