Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm trước dấu hiệu cho thấy số lượng giàn khoan dầu hoạt động tại Mỹ và sản lượng “vàng đen” của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) đều tăng.
Đóng cửa phiên giao dịch, dầu Brent trên sàn Lodnon giảm 67 US cent (1,2%) xuống còn 56,12 USD/thùng; loại dầu này giá đã tăng khoảng 20% trong quý III/2017, mức tăng mạnh nhất trong quý ba hàng năm kể từ năm 2004. Giá dầu ngọt nhẹ (WTI) trên sàn New York giảm 1,09 USD (2,1%) xuống còn 50,58 USD/thùng; loại dầu này đã có mức tăng quý III mạnh nhất kể từ quý II/2016.
Iraq thông báo lượng dầu xuất khẩu của nước này trong tháng 9/2017 tăng nhẹ. Trong khi một khảo sát của Reuters cho thấy sản lượng dầu của OPEC đã tăng trong tháng 9/2017 chủ yếu do sản lượng “vàng đen” của Iraq và Libya gia tăng
Theo công ty dịch vụ năng lượng General Electric Co's Baker Hughes, số lượng giàn khoan dầu tại Mỹ tăng thêm sáu giàn lên 750 giàn trong tuần kết thúc vào ngày 29/9. Nhà phân tích thị trường năng lượng John Tjornehoj của CHS Hedging cho biết số giàn khoan dầu hoạt động tại Mỹ đã tăng lần đầu tiên trong bảy tuần.
Trong khi đó, Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho hay nhu cầu xăng của Mỹ giảm nhẹ 0,1% trong tháng 7 so với năm trước, đây là lần sụt giảm đầu tiên trong 4 tháng. Tổng thể, nhu cầu xăng của Mỹ tính tới tháng 7 giảm 0,46% so với cùng kỳ một năm trước, nhưng sự sụt giảm có thể trở nên rõ ràng hơn khi số liệu có tính tới nhu cầu bị thiệt hại từ một mùa bão lịch sử trong những tháng tới. Nhu cầu xăng của Mỹ giảm 5.000 thùng/ngày trong tháng 7 xuống 9,573 triệu thùng/ngày.
Về thông tin liên quan, Bộ trưởng Bộ Năng lượng Các tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE) Suhail Al-Mazrouei ngày 1/10, cho biết từ tháng 11, nước này sẽ cắt giảm sản lượng khai thác dầu xuống còn 139.000 thùng/ngày, theo quyết định của Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC).
Hãng thông tấn WAM của UAE cho biết Công ty Dầu khí Quốc gia Abu Dhabi (ADNOC) đã quyết định cắt giảm sản lượng trong tháng 11 theo đúng cam kết của nước này trong việc giảm sản lượng còn 139.000 thùng mỗi ngày như OPEC đã lên kế hoạch. Việc cắt giảm cụ thể đã được UAE ấn định cho mỗi khu vực nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất trong gần bảy tuần do lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ tăng đẩy đồng USD đi lên.
Giá vàng giao ngay giảm 0,4% xuống còn 1.273,78 USD/ounce, sau khi đã có thời điểm chạm mức thấp nhất trong gần bảy tuần qua là 1.270,60 USD/ounce; vàng giao tháng 12 giảm 9 US cent tương đương 0,7% và khép phiên với 1.275,80 USD/ounce.
Hầu hết các thị trường chứng khoán trên thế giới tăng điểm nhờ tâm lý lạc quan về triển vọng lợi nhuận doanh nghiệp và kế hoạch cải cách thuế của Tổng thống Mỹ Donald Trump, trong khi đồng USD mạnh lên sau khi Viện Quản lý nguồn cung (ISM) công bố số liệu cho thấy chỉ số sản xuất tăng lên mức cao nhất kể từ năm 2004 trong tháng Chín vừa qua.
Trong khi đó, lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm chạm mức cao nhất kể từ giữa tháng Bảy, trước những số liệu lạc quan từ nền kinh tế Mỹ, và những đồn đoán rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ tăng lãi suất lần thứ ba trong năm nay, cũng như khả năng sẽ có một người kế nhiệm có xu hướng ủng hộ thắt chặt tiền tệ sau Chủ tịch Fed Janet Yellen.
Lợi suất tăng sẽ khiến trái phiếu hấp dẫn hơn so với vàng, trong khi đồng USD mạnh lên cũng khiến các tài sản được định giá bằng đồng tiền này trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua nắm giữ các đồng tiền khác.
Trong khi đó, quan ngại xung quanh tình trạng bạo lực diễn ra trong suốt cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề độc lập của vùng Catalunya (Tây Ban Nha) cuối tuần trước đã ảnh hưởng đến đồng euro.
Đồng euro giảm 0,6% so với đồng USD sau khi cảnh sát Tây Ban Nha phải dùng đến dùi cui và đạn cao su để chặn đứng cuộc bỏ phiếu gần đây ở Catalunya, khiến hàng trăm người bị thương.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,1% xuống còn 16,59 USD/ounce, trong khi giá bạch kim tăng 0,5% lên 914,10 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô tăng 0,21 US cent tương đương 1,5% lên 14,31 US cent/lb, tăng nhẹ dù gần chạm mức trung bình của 40 phiên là 14,46 US cent/lb. Đường trắng giao tháng 12 giá tăng 6,9 USD tương đương 1,9% lên 369,10 USD/tấn.
Cà phê arabica giao tháng 12 giá giảm 0,85 US cent tương đương 0,7% xuống 1,272 USD/lb sau khi có lúc giảm xuống mức thấp nhất kể từ 12/7 là 1,253 USD.
Thị trường arabica chịu áp lực bởi đồng USD mạnh lên và mưa xuống ở Brazil làm giảm lo ngại khô hạn về việc ảnh hưởng tới năng suất.
Giá robusta giao tháng 11 tăng 39 USD tương đương 2% lên 2.007 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
3/10
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
50,58
|
-1,09
|
-2,1%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
56,12
|
-0,67
|
-0,89%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
37.890,00
|
-380,00
|
-0,99%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,93
|
+0,01
|
+0,38%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
155,10
|
-0,43
|
-0,28%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
176,27
|
-0,38
|
-0,22%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
519,25
|
+0,75
|
+0,14%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
52.580,00
|
-320,00
|
-0,60%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.271,30
|
-4,50
|
-0,35%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.601,00
|
-11,00
|
-0,24%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,59
|
-0,07
|
-0,41%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
60,20
|
0,00
|
0,00%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
912,20
|
-0,75
|
-0,08%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
911,28
|
+0,06
|
+0,01%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
293,75
|
-1,80
|
-0,61%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.493,00
|
+12,00
|
+0,19%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.101,00
|
-1,00
|
-0,05%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
3.236,00
|
+74,00
|
+2,34%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
20.675,00
|
0,00
|
0,00%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
350,50
|
-1,00
|
-0,28%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
444,25
|
-0,50
|
-0,11%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
251,50
|
-1,00
|
-0,40%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,05
|
+0,03
|
+0,25%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
953,50
|
-3,75
|
-0,39%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
313,00
|
-0,60
|
-0,19%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
32,38
|
-0,14
|
-0,43%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
489,60
|
-1,90
|
-0,39%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.037,00
|
-6,00
|
-0,29%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
127,20
|
-0,85
|
-0,66%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
14,31
|
+0,21
|
+1,49%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
153,00
|
+4,65
|
+3,13%
|
Bông
|
US cent/lb
|
67,55
|
-0,02
|
-0,03%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
406,80
|
+4,60
|
+1,14%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
203,40
|
+1,00
|
+0,49%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,46
|
-0,02
|
-1,62%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet