Năng lượng: Giá dầu cả tuần tăng bởi lo ngại nguồn cung thắt chặt
Phiên cuối tuần, giá dầu giảm bởi lo ngại cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung sẽ làm giảm nhu cầu mặt hàng này trên quy mô toàn cầu. Kết thúc phiên này, dầu ngọt nheo (WTI) trên sàn New York giảm 11 UScent tương đương 0,2% xuống 62,76 USD/thùng, sau khi chạm mức cao nhất kể từ đầu tháng Năm vào phiên trước đó; dầu Brent trên sàn London cũng giảm 41 UScent tương đương 0,6% xuống 72,21 USD/thùng.
Mặc dù giảm trong phiên cuối tuần song tính chung cả tuần qua, giá dầu ngọt nhẹ và dầu Brent lần lượt tăng 1,8% và 2,3% do nguy cơ nguồn cung bị thắt chặt trước những căng thẳng tại khu vực Trung Đông.
Các báo cáo của ING cho thấy lượng xuất khẩu dầu thô của Iran giảm xuống mức 0 theo lệnh trừng phạt của Mỹ đã không được thực hiện triệt để trên thực tế, bởi một lượng lớn tàu chở dầu Iran đã tắt bộ tiếp sóng của họ, điều này đồng nghĩa với việc họ đang bán dầu mà không bị phát hiện.
Báo cáo của công ty dịch vụ dầu khí Baker Hughes cho hay, số giàn khoan dầu đang hoạt động tại Mỹ đã giảm tuần thứ hai liên tiếp trong tuần này khi chỉ còn 802 giàn, giảm 3 giàn so với tuần trước đó. Thông tin này chứng tỏ hoạt động khai thác dầu tại Mỹ đang có xu hướng chậm lại, qua đó giúp giá dầu hưởng lợi.
Trước đó, Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabia, Khalid al-Falih, cho biết hai trạm bơm trên đường ống dẫn dầu từ các giếng dầu ở tỉnh miền Đông của nước này tới thành phố Yanbu nằm bên bờ Biển Đỏ đã là mục tiêu bị tấn công trong ngày 14/5. Đường ống dẫn dầu quan trọng này có chiều dài 1.200 km với công suất vận chuyển ít nhất 5 triệu thùng/ngày.
Saudi Arabia coi đây là hành động khủng bố hai ngày sau khi các tàu chở dầu của nước này bị tấn công ngoài khơi bờ biển Các Tiểu vương quốc Arập Thống nhất (UAE).
Ngày 16/5, liên minh quân sự do Saudi Arabia dẫn đầu đã tiến hành một số cuộc không kích nhằm vào các mục tiêu của lực lượng phiến quân nổi dậy Houthi tại thủ đô Sanaa của Yemen. Động thái này diễn ra sau khi Houthi thừa nhận đã tiến hành vụ tấn công hai trạm bơm dầu của Saudi Arabia bằng máy bay không người lái trước đó.
Ngoài ra, sự thiếu chắc chắn của thị trường về khả năng Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước đồng minh sẽ tiếp tục thỏa thuận cắt giảm nguồn cung sau cuộc họp ủy ban điều phối chung vào ngày 19/5 tới tại Jeddah (Saudi Arabia) hay không cũng hỗ trợ giá dầu. Thỏa thuận này đã góp phần giúp giá dầu tăng hơn 30% từ đầu năm 2019 đến nay.
Kim loại quý: Giá vàng giảm
Giá vàng liên tiếp đi xuống trong hai phiên giao dịch cuối tuần và chạm mức thấp nhất hai tuần qua do thị trường chứng khoán khởi sắc trở lại và các số liệu tích cực từ kinh tế Mỹ. Kết thúc phiên cuối tuần, giá vàng giao ngay giảm 0,8%, xuống 1.276,25 USD/ounce, sau khi có lúc rơi xuống mức 1.274,51 USD/ounce - thấp nhất kể từ ngày 3/5 vào đầu phiên. Như vậy, mặt hàng này đã giảm 0,7% trong tuần giao dịch vừa qua, ghi dấu tuần giảm giá mạnh nhất kể từ ngày 19/4.
Trong khi đó, giá vàng giao tháng 6/2019 giảm 10,50 USD (0,8%), xuống 1.275,70 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ ngày 2/5/2019; tính chung cả tuần, giá vàng giao kỳ hạn này mất 0,9%.
Chỉ số lòng tin tiêu dùng Mỹ tháng 5/2019 đã tăng lên 102,4 từ mức 97,2 của tháng 4/2019, là mức cao nhất trong 15 năm.
Ngoài ra, các số liệu lạc quan về lượng nhà mới xây của nước này trong tháng Tư và số đơn xin trợ cấp thất nghiệp tuần trước cũng cho thấy “sức khỏe” của nền kinh tế lớn nhất thế giới tiếp tục ổn định, qua đó làm giảm nhu cầu đối với các tài sản an toàn như vàng, đồng thời giúp chỉ số đồng USD - thước đo diễn biến của đồng USD so với sáu đồng tiền chủ chốt khác - tăng 0,1% trong phiên này và tăng 0,6% trong tuần qua.
Cũng trong phiên cuối tuần, giá bạc giao tháng 7/2019 giảm 15,1 US cent Mỹ (1%) xuống 14,388 USD/ounce; giá bạch kim giao tháng 7/2019 mất 13,30 USD (1,6%) xuống 820,30 USD/ounce; giá palađi giao tháng 6/2019 lùi 18,9 USD (1,4%), xuống 1.305,80 USD/ounce. Tính chung cả tuần, giá bạc, bạch kim và palađi lần lượt giảm 2,7%, hơn 5% và 3,3%.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm, quặng sắt tăng
Giá đồng giảm tuần thứ 5 liên tiếp do chiến tranh thương mại giữa Mỹ - Trung gia tăng.
Phiên cuối tuần, giá đồng kỳ hạn trên sàn London giảm 0,7% xuống 6.055 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá đồng giảm khoảng 1,2% và chạm mức thấp nhất gần 3,5 tháng (6.007,5 USD/tấn) trong ngày thứ hai (13/5/2019).
Giá quặng sắt tại Trung Quốc trong phiên cuối tuần tăng gần 6% lên mức cao nhất kể từ 9 năm do triển vọng nhu cầu tiêu thụ quặng gia tăng từ các nhà máy thép. Quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Đại Liên tăng 5,8% lên 710 CNY (102,87 USD)/tấn, mức cao đỉnh điểm kể từ tháng 7/2010.
Giá thép cây kỳ hạn trên sàn Thượng Hải tăng 1,3% lên 3.771 CNY/tấn, trong khi giá thép cuộn cán nóng tăng 1,1% lên 3.682 CNY/tấn. Các nhà đầu tư dự kiến nhu cầu nguyên liệu sản xuất thép sẽ tăng bất chấp giá tăng cao, do các nhà máy thép vẫn tăng sản lượng trong bối cảnh lợi nhuận tăng mạnh.
Nông sản: Giá cà phê và đường giảm
Phiên cuối tuần, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn New York giảm 2,65 US cent tương đương 2,9% xuống 89 US cent/lb, trong phiên có lúc chạm 88,45 US cent/lb, thấp nhất 1 tuần. Tính chung cả tuần, giá arabica giảm gần 2%, tuần giảm thứ 7 trong vòng 10 tuần, do nguồn cung toàn cầu lớn và đồng real suy yếu.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn London giảm 34 USD tương đương 2,6% xuống 1.301 USD/tấn sau khi chạm đáy 1.292 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá robusta giảm 4,6%, tuần giảm thứ 8 liên tiếp trong 10 tuần.
Giá đường giảm xuống mức thấp nhất 7,5 tháng do đồng real Brazil giảm. Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn ICE giảm 0,23 US cent tương đương 2% xuống 11,55 US cent/lb, trong phiên có lúc chạm 11,43 US cent/lb, thấp nhất kể từ ngày 1/10/2018. Tính chung cả tuần, giá đường thô giảm 1,5%, tuần giảm thứ 4 liên tiếp. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2019 trên sàn ICE giảm 4,1 USD tương đương 1,3% xuống 321,5 USD/tấn, trong phiên có lúc chạm 318,4 USD/tấn, thấp nhất kể từ ngày 1/10/2018.
Giá ngô trên sàn Chicago tăng lên mức cao nhất 4 tháng, do dự báo mưa lớn ở khắp khu vực Trung Tây nước Mỹ trong tuần tới, dấy lên mối lo ngại về diện tích trồng suy giảm dẫn đến nguồn cung ngô toàn cầu giảm. Giá ngô kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn Chicago tăng 4-1/4 US cent/lb lên 3,83-1/4 USD/bushel, trước đó trong phiên giá ngô đạt 3,84-3/4 USD/bushel, cao nhất kể từ ngày 27/3/2019. Tính chung cả tuần, giá ngô tăng 31-1/2 US cent tương đương 8,95%.
Giá lúa mì đỏ, mềm vụ đông kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn Chicago giảm 2 US cent xuống 4,65 USD/bushel, trong phiên có lúc đạt 4,73-1/4 USD/bushel, cao nhất kể từ ngày 4/3/2019. Tính chung cả tuần, giá lúa mì tăng 9,47%, rời khỏi chuỗi giảm 5 tuần liên tiếp.
Giá lúa mì đỏ, cứng vụ đông kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn Chicago tăng 3-1/2 US cent lên 4,2-1/4 USD/bushel. Giá lúa mì vụ xuân kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn Chicago tăng 1 US cent lên 5,27-3/4 USD/bushel.
Giá đậu tương kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn Chicago phiên cuối tuần giảm 18 US cent tương đương 2,3% xuống 8,21-3/4 USD/bushel, trước đó trong phiên giảm xuống 8,2-1/2 USD/bushel. Song tính chung cả tuần, giá đậu tương tăng 12-1/2 US cent tương đương 1,5%.
Giá dầu cọ tại Malaysia giảm trở lại sau 4 phiên tăng liên tiếp do nhu cầu tăng mạnh.
Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 8/2019 trên sàn Bursa Malaysia giảm 3 ringgit tương đương 0,1% xuống 2.093 ringgit (501,56 USD)/tấn, trong đầu phiên giao dịch giá dầu cọ tăng lên 2.112 ringgit/tấn, cao nhất kể từ ngày 30/4/2019. Tính chung cả tuần giá dầu cọ tăng 5,5%, tuần tăng đầu tiên trong 4 tuần.
Giá cao su tại Tokyo rời khỏi mức cao nhất 1 tháng đạt được trong đầu phiên giao dịch, song thiết lập tuần tăng do dự báo Thái Lan hạn chế xuất khẩu sẽ khiến nguồn cung mặt hàng này trên toàn cầu thắt chặt
Giá cao su kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn TOCOM giảm 0,3 JPY xuống 192,8 JPY (1,8 USD)/kg, trong đầu phiên giao dịch đạt 195,5 JPY/kg, cao nhất kể từ ngày 15/4/2019. Tính chung cả tuần, giá cao su tăng 3,3%. Giá cao su TSR20 kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn TOCOM giảm 0,5% xuống 164,8 JPY/kg.
Trong khi đó, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Thượng Hải tăng 135 CNY lên 12.205 CNY (1.766 USD)/tấn, trong đầu phiên giao dịch đạt 12.280 CNY/tấn, cao nhất kể từ ngày 12/3/2019
Giá hàng hóa thế giới
Mặt hàng
|
ĐVT
|
Giá 11/5/2019
|
Giá 18/5/2019
|
18/5 so với 17/5
|
18/5 so với 17/5 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
61,66
|
62,76
|
-0,11
|
-0,17%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
70,62
|
72,21
|
-0,41
|
-0,56%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
44.940,00
|
45.830,00
|
-260,00
|
-0,56%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,62
|
2,63
|
-0,01
|
-0,30%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
198,91
|
204,73
|
-1,45
|
-0,70%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
205,04
|
209,55
|
-2,77
|
-1,30%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
636,25
|
657,00
|
-8,25
|
-1,24%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
62.100,00
|
62.710,00
|
+50,00
|
+0,08%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.287,40
|
1.275,70
|
-10,50
|
-0,82%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.538,00
|
4.514,00
|
-14,00
|
-0,31%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
14,79
|
14,39
|
-0,15
|
-1,04%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
52,40
|
51,10
|
-0,10
|
-0,20%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
865,54
|
818,88
|
-15,44
|
-1,85%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.357,45
|
1.315,10
|
-20,65
|
-1,55%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
865,54
|
273,85
|
-0,95
|
-0,35%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
277,45
|
6.056,00
|
-44,00
|
-0,72%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
6.126,00
|
1.837,00
|
-23,00
|
-1,24%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
1.808,00
|
2.600,00
|
-37,00
|
-1,40%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
2.630,00
|
19.500,00
|
+25,00
|
+0,13%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
351,75
|
383,25
|
+4,25
|
+1,12%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
424,75
|
465,00
|
-2,00
|
-0,43%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
286,25
|
294,00
|
-0,25
|
-0,08%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
10,99
|
11,07
|
+0,17
|
+1,51%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
809,25
|
821,75
|
-18,00
|
-2,14%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
287,30
|
294,30
|
-7,60
|
-2,52%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
26,79
|
27,22
|
-0,50
|
-1,80%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
435,80
|
443,20
|
-3,80
|
-0,85%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.312,00
|
2.353,00
|
-19,00
|
-0,80%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
90,80
|
89,00
|
-2,65
|
-2,89%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
11,72
|
11,55
|
-0,23
|
-1,95%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
95,05
|
96,75
|
-5,75
|
-5,61%
|
Bông
|
US cent/lb
|
68,45
|
65,99
|
-0,81
|
-1,21%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
358,50
|
324,00
|
-4,10
|
-1,25%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
189,30
|
192,40
|
-0,40
|
-0,21%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,30
|
1,36
|
+0,02
|
+1,64%
|
Nguồn: Bloomberg, Reuters, CafeF
Nguồn:vinanet