Năng lượng: Giá dầu giảm mạnh nhất kể từ đầu năm
Phiên cuối tuần, giá dầu tăng do giới đầu tư tăng mua sau khi giá ở những phiên trước giảm đến mức hấp dẫn. Kết thúc phiên này, dầu Brent tăng 93 US cent (1,4%) lên 68,69 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ (WTI) tăng 72 US cent (1,2%) lên 58,63 USD/thùng.
Tuy nhiên, tính chung cả tuần, dầu Brent giảm 4,5% (giảm nhiều nhất kể từ đầu năm 2019), còn dầu WTI giảm 6,4%, cũng mất nhiều nhất kể từ tháng 12/2018.
Giá dầu vẫn đang chịu sức ép do nguồn dầu dự trữ gia tăng. Tại kho cảng Cushing, Oklahoma (Mỹ), dự trữ dầu đã chạm mức cao nhất kể từ tháng 12/2017. Dữ liệu của OPEC cho thấy dự trữ dầu tại các nước phát triển trong tháng 3/2019 tăng 3,3 triệu thùng và cao hơn mức trung bình trong 5 năm khoảng 22,8 triệu thùng.
Bên cạnh đó, mối lo ngại về những ảnh hưởng từ căng thẳng thương mại Mỹ-Trung đến kinh tế toàn cầu cũng đang gây áp lực lên thị trường này. Chủ tịch Ritterbusch and Associates, cho rằng quyết định tăng thuế của Mỹ đối với hàng hóa Trung Quốc có tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp Mỹ, qua đó có thể ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế lớn nhất thế giới và làm suy giảm nhu cầu tiêu thụ dầu mỏ.
Các chỉ dấu về “sức khỏe” kinh tế của Mỹ, châu Âu và Nhật Bản cho thấy tăng trưởng của các nền kinh tế này không mạnh như dự kiến. Công ty dữ liệu IHS Markit mới đây cho biết chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) trong lĩnh vực chế tạo của Mỹ giảm xuống 50,6 hồi hồi đầu tháng 5/2019 - mức thấp nhất kể từ tháng 9/2009, so với mức 52,6 ghi nhận trong tháng 4/2019. Một khảo sát khác cho thấy tăng trưởng kinh doanh tại Khu vực sử dụng đồng euro (Eurozone) thấp hơn dự kiến trong tháng này.
Giữa bối cảnh này, Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) “bóng gió” về việc duy trì thỏa thuận cắt giảm sản lượng, trong khi căng thẳng tại khu vực Trung Đông chưa có dấu hiệu hạ nhiệt.
Kim loại quý: Giá vàng tăng do USD yếu đi
Phiên cuối tuần, giá vàng vững do sự yếu đi của đồng bạc xanh và những đồn đoán về chương trình hạ lãi suất tại Mỹ. Cuối phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,1% lên 1.283,91 USD/ounce; vàng kỳ hạn giảm 0,1% xuống còn 1.283,60 USD.
Phiên này, đồng USD đã rời mức đỉnh của hai năm, sau khi số liệu bi quan về lượng hàng hóa lâu bền và hoạt động chế tạo tại Mỹ làm dấy lên mối lo ngại rằng xung đột thương mại với Trung Quốc có thể gây tổn thương cho nền kinh tế lớn nhất thế giới. Theo các nhà phân tích, sự leo thang căng thẳng thương mại và số liệu không khả quan về tình hình kinh tế đã dẫn đến những đồn đoán rằng Fed có thể tiến hành hạ lãi suất, nhân tố tích cực đối với giá vàng.
Về những kim loại quý khác, giá bạc phiên cuối tuần giảm 0,2% xuống 14,56 USD/ounce, trong khi palađi tăng 2% lên 1.336,51 USD/ounce, tính chung cả tuần palađi tăng hơn 1% và là tuần tăng đầu tiên trong vòng 4 tuần. Bạch kim phiên này tăng 1,1% lên 802,25 USD/oune, tính chung cả tuần giảm tuần thứ 5 liên tiếp.
Kim loại màu: Giá tăng trong phiên cuối tuần
Phiên cuối tuần, giá nickel đã tăng vọt lên mức cao nhất hơn 2 tuần do các nhà đầu tư tích cực mua vào, trong khi các kim loại công nghiệp khác tăng giá nhờ USD yếu hơn và hy vọng vào một thỏa thuận thương mại Mỹ- Trung.
Giá nickel kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London tăng gần 500 USD chỉ trong khoảng 10 phút vào buổi sáng, do hoạt động mua đầu cơ của các nhà đầu tư Trung Quốc và tiếp tục tăng vào phiên chiều. Chốt phiên giao dịch, giá nickel tăng 4% đạt 12.370 USD. Trong phiên, có lúc giá tăng lên mức cao nhất kể từ 30/4 là 12.495 USD/tấn.
Giá đồng kỳ hạn ba tháng cũng tăng 0,5% lên 5.955 USD/tấn, nhưng tính chung cả tuần giá đã giảm tuần thứ sáu liên tiếp. Giá thiếc kỳ hạn ba tháng đã tăng vọt lên 320 USD/tấn, mức cao nhất kể từ tháng 4/2018. Giá kẽm cũng tăng 1,6% chốt phiên đạt 2.560 USD/tấn. Giá nhôm tăng 0,1% đạt 1.800 USD/tấn trong khi giá chì tăng 0,9% lên 1.825 USD/tấn.
Nông sản: Giá cà phê tăng trong tuần
Cà phê arabica tại New York phiên cuối tuần giảm nhẹ sau khi có lúc đạt mức cao nhất 6 tuần do lo ngại về thời tiết lạnh ở Brazil. Giá cà phê arabica giao tháng 7 giảm 0,2 cent, tương đương 0,2%, còn 93,30 cent/lb, sau khi đạt mức 95 cent vào buổi sáng cùng ngày, mức cao nhất kể từ ngày 5/4. Tính chung cả tuần, giá tăng 6,8%, mức tăng hàng tuần cao nhất kể từ đầu năm tới nay. Giá cà phê đã chịu áp lực rất lớn trong năm nay do nguồn cung toàn cầu dư thừa. Tháng trước, giá đã giảm xuống mức thấp 13 năm còn 86,35 cent.
Cà phê robusta giao tháng 7 giảm 1 USD, tương đương 0,1%, còn 1.368 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá tăng 5,2%.
Giá đường thô New York giao tháng 7 đã tăng 0,09 cent, tương đương 0,8%, lên 11,66 cent/lb. Tính chung cả tuần, giá tăng gần 1%, sau năm tuần giảm liên tiếp. Giá đường trắng London giao tháng 8 đã tăng 2,30 USD, tương đương 0,7%, đạt mức 324,40 USD/tấn.
Sản lượng đường toàn cầu dự kiến tăng 1% trong năm 2019/20 so với giai đoạn trước, do sản lượng ở Brazil và Liên minh châu Âu tăng cao, vượt xa mức giảm sút ở Ấn Độ, Bộ Nông nghiệp Mỹ cho biết.
Giá ngô Mỹ tăng lên mức cao nhất 1 năm, giá đậu tương và lúa mì cũng tăng cao do lo ngại mưa lớn kéo dài tại miền Trung tây nước Mỹ sẽ ảnh hưởng tới công việc trồng trọt vụ mùa năm nay, đã đẩy
Các nhà dự báo cho biết lượng mưa cao trên mức bình thường bao phủ hầu hết các vành đai trang trại ở Trung Tây và Đồng bằng trong 15 ngày tới, tiếp tục trì hoãn việc trồng ngô và đậu tương, đồng thời có khả năng làm giảm chất lượng vụ lúa mì đang phát triển.
Chốt phiên cuối tuần, giá ngô tại Chicago giao tháng 7 tăng 14-1/2 cent đạt 4,04-1/4 USD/bushel, mức giá cao nhất kể từ 29/5/2018. Tính chung cả tuần, giá tăng 5,5% sau khi tăng gần 9% trong tuần trước. Trong khi đó, giá đậu tương tháng 7 tăng 8-1/4 cent đạt 8,29-3/4 USD/bushel, tăng 1% trong cả tuần. Giá lúa mì giao tháng 7 tăng 19-1/4 cent lên 4,89-1/2 USD/bushel, tăng 5,3% cả tuần.
Giá cao su tại Sàn giao dịch Tokyo ( TOCOM) đã phục hồi khỏi mức thấp nhất 1 tuần trong phiên cuối tuần do hoạt động giao dịch trục lợi và giá cao su kỳ hạn tăng tại Thượng Hải. Tại TOCOM, giá cao su giao tháng 10/2019 chốt phiên tăng 1,0 JPY, hoặc 0,5%, đạt 191,8 JPY(1,75 USD)/kg, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 16/5 là 188,6 JPY vào đầu phiên. Tính chung cả tuần, giá giảm 0,5%. Giá cao su TSR 20 giao tháng 11 đóng cửa giảm 0,6% còn 161,7 JPY/kg.
Trong khi đó trên sàn giao dịch Thượng Hải, giá cao su giao tháng 9 đã tăng 50 CNY đạt 11.850 CNY (1.716 USD)/tấn. Tồn kho cao su tại đây đã giảm 2,1% trong tuần này. Trên sàn giao dịch SICOM của Singapore, giá cao su giao tháng 6 đạt 152,9 US cent/kg, tăng 1,0%.
Giá hàng hóa thế giới
Mặt hàng
|
ĐVT
|
Giá 18/5/2019
|
Giá 25/5/2019
|
25/5 so với 24/5
|
25/5 so với 24/5 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
62,76
|
58,63
|
+0,72
|
+1,24%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
72,21
|
68,69
|
+0,93
|
+1,37%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
45.830,00
|
43.230,00
|
+360,00
|
+0,84%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,63
|
2,60
|
+0,02
|
+0,78%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
204,73
|
193,45
|
+2,12
|
+1,11%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
209,55
|
197,13
|
+0,89
|
+0,45%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
657,00
|
604,75
|
-2,75
|
-0,45%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
62.710,00
|
59.700,00
|
+340,00
|
+0,57%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.275,70
|
1.289,20
|
-1,80
|
-0,14%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.514,00
|
4.505,00
|
-9,00
|
-0,20%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
14,39
|
14,56
|
-0,06
|
-0,40%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
51,10
|
51,80
|
+0,80
|
+1,57%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
818,88
|
806,05
|
+6,45
|
+0,81%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.315,10
|
1.335,68
|
+24,23
|
+1,85%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
273,85
|
269,95
|
+1,90
|
+0,71%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
6.056,00
|
5.955,00
|
+29,00
|
+0,49%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.837,00
|
1.800,00
|
+2,50
|
+0,14%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.600,00
|
2.560,00
|
+40,00
|
+1,59%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
19.500,00
|
19.300,00
|
-25,00
|
-0,13%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
383,25
|
404,25
|
+14,50
|
+3,72%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
465,00
|
489,50
|
+19,25
|
+4,09%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
294,00
|
308,50
|
+4,00
|
+1,31%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,07
|
11,56
|
+0,01
|
+0,04%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
821,75
|
829,75
|
+8,25
|
+1,00%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
294,30
|
300,50
|
+3,30
|
+1,11%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
27,22
|
27,01
|
+0,23
|
+0,86%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
443,20
|
444,40
|
+2,60
|
+0,59%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.353,00
|
2.467,00
|
+41,00
|
+1,69%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
89,00
|
93,30
|
-0,20
|
-0,21%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
11,55
|
11,66
|
+0,09
|
+0,78%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
96,75
|
100,95
|
+1,25
|
+1,25%
|
Bông
|
US cent/lb
|
65,99
|
68,39
|
+0,91
|
+1,35%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
324,00
|
326,50
|
+2,80
|
+0,86%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
192,40
|
192,50
|
+0,70
|
+0,36%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,36
|
1,40
|
+0,05
|
+3,39%
|
Nguồn: Bloomberg, Reuters, CafeF
Nguồn:Vinanet