menu search
Đóng menu
Đóng

Tổng hợp thị trường hàng hóa TG phiên 13/6: Giá dầu và cà phê tăng, đồng và cao su giảm

12:38 14/06/2024

Phiên thứ Năm (13/6), giá hàng hóa biến động trái chiều, tiếp tục ảnh hưởng từ tỷ giá USD tăng sau dữ liệu PPI của Mỹ và kết quả cuộc họp của Fed.
 
Chỉ số giá sản xuất (PPI) của Mỹ trong tháng 5/2024 giảm trong bối cảnh chi phí năng lượng giảm, cho thấy lạm phát đã hạ nhiệt sau khi tăng mạnh trong quý 1/2024. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) công bố trước đó cũng thấp hơn dự kiến.
Lạm phát chậm lại thường làm tăng kỳ vọng lãi suất sẽ sớm được hạ. Tuy nhiên, tuyên bố của Fed sau cuộc họp về việc sẽ chưa sớm hạ lãi suất đã ngăn USD yếu đi.
Năng lượng: Giá dầu tăng sau khi OPEC công bố dự báo về tăng trưởng nhu cầu dầu và dữ liệu cho thấy thị trường lao động được nới lỏng và lạm phát chậm lại, dấy lên kỳ vọng về khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ cắt giảm lãi suất, bất chấp những bình luận gần đây của các quan chức Fed.
Kết thúc phiên này, giá dầu Brent tăng 15 US cent, tương đương 0,2%, lên 82,75 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ của Mỹ (WTI) tăng 12 US cent, tương đương 0,2%, lên 78,62 USD/thùng. Cả hai loại dầu đều tăng gần 1% trong phiên trước đó.
Những thông tin mới đây từ Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) cũng thúc đẩy giá dầu thô. Tổ chức này dự kiến nhu cầu sẽ tăng lên 116 triệu thùng/ngày (bpd) vào năm 2045 và có thể cao hơn nữa, Tổng thư ký OPEC Hathaim Al Ghais cho biết hôm thứ Năm khi chỉ trích báo cáo của Cơ quan Năng lượng Quốc tế dự đoán mức tiêu thụ dầu đạt đỉnh vào năm 2029.
Al Ghais, viết trên tạp chí Energy Aspects, gọi báo cáo của IEA là “bình luận nguy hiểm, đặc biệt đối với người tiêu dùng và (điều đó) sẽ chỉ dẫn đến biến động năng lượng ở quy mô chưa từng có”.
Bộ Lao động Mỹ cho biết chỉ số giá sản xuất (PPI) trong tháng 5/2024 đã giảm 0,2% so với tháng trước đó. Các nhà kinh tế được Reuters thăm dò dự báo mức tăng 0,1%. Dữ liệu riêng biệt cho thấy số đơn xin trợ cấp thất nghiệp ban đầu hàng tuần đã vượt quá ước tính và đạt mức cao nhất trong 10 tháng.
Vào thứ Tư, Fed đã giữ lãi suất ổn định và đẩy lùi thời điểm bắt đầu nới lỏng chính sách dự kiến đến cuối tháng 12. Trong cuộc họp báo sau khi kết thúc cuộc họp chính sách kéo dài hai ngày của ngân hàng trung ương Mỹ, Chủ tịch Fed Jerome Powell cho biết lạm phát đã giảm mà không gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế.
Nhà phân tích Jim Ritterbusch của Ritterbusch and Associates cho biết, nhận xét của ông Powell “ngụ ý rằng không có khung thời gian chắc chắn cho việc giảm lãi suất, dường như sẽ gây thêm áp lực lên tổ hợp năng lượng”. Chi phí vay cao có xu hướng làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế và có thể hạn chế nhu cầu dầu mỏ.
Các nhà đầu tư sẽ chuyển sự chú ý sang Chỉ số tâm lý người tiêu dùng của Đại học Michigan, công bố ngày 14/6, để biết các dấu hiệu về sức mạnh hay điểm yếu của nền kinh tế Mỹ.
Bob Yawger, giám đốc năng lượng tương lai tại Muzuho, cho biết: “Tháng trước, con số này yếu hơn nhiều so với dự đoán, với sự biến động bất ngờ trong thị trường dầu khi các nhà giao dịch coi con số khập khiễng là một chỉ báo nhu cầu tiêu cực”.
Về phía nguồn cung, dự trữ dầu thô của Mỹ tăng nhiều hơn dự kiến trong tuần trước, chủ yếu do nhập khẩu tăng vọt, trong khi tồn kho nhiên liệu cũng tăng hơn dự kiến, dữ liệu từ Cơ quan Thông tin Năng lượng cho thấy hôm thứ Tư.
Các nhà kinh doanh dầu mỏ cũng đang theo dõi các cuộc đàm phán về lệnh ngừng bắn ở dải Gaza, điều này có thể làm giảm bớt lo ngại về sự gián đoạn nguồn cung dầu trong khu vực.
Trong cuộc tấn công mới nhất vào hoạt động vận chuyển hàng hải, phiến quân Houthi đồng minh với Iran hôm thứ Tư đã nhận trách nhiệm về các cuộc tấn công bằng tàu thủy nhỏ và tên lửa khiến một tàu chở than thuộc sở hữu của Hy Lạp buộc phải được giải cứu gần cảng Hodeidah ở Biển Đỏ của Yemen.
Kim loại quý: Giá vàng giảm hơn 1% sau khi số liệu giá sản xuất của Mỹ thấp hơn so với dự kiến trong bối cảnh các nhà đầu tư bán chốt lời.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay giảm 0,9% xuống 2.302,13 USD/ounce; vàng giao sau giảm 1,5% xuống 2.363,1 USD/ounce.
Tai Wong, một nhà giao dịch kim loại độc lập có trụ sở tại New York, cho biết: “Việc vàng không thể duy trì đà tăng do dữ liệu lạm phát trong tuần này cho thấy hoạt động chốt lời đang lan rộng”.
Fed đã giữ lãi suất ổn định vào thứ Tư và dự kiến chỉ cắt giảm lãi suất một lần vào năm 2024 mặc dù lạm phát có một số tiến triển, do tăng trưởng và tỷ lệ thất nghiệp ở mức tốt hơn mức mà ngân hàng trung ương Mỹ cho là bền vững trong dài hạn.
Lãi suất cao làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng thỏi không sinh lời.
Lạm phát chậm lại cũng được ghi nhận trong dữ liệu chỉ số giá tiêu dùng công bố hôm thứ Tư, con số này trong tháng Năm không thay đổi đến mức gây ngạc nhiên. Điều đó đã đẩy vàng lên cao tới 1% trước khi giảm trở lại và đóng cửa chỉ cao hơn khoảng 0,3% sau khi Fed cùng ngày đưa ra thông điệp chưa sớm hạ lãi suaatsa.
Ông Wong nói thêm: “Sức mua của người Trung Quốc có thể tiếp tục giảm nhưng không rõ ở đâu nhưng theo thống kê, họ chưa mua trên mức 2300 USD”.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 2,5% xuống 28,96 USD/ounce, bạch kim giảm 1,2% xuống 952,35 USD và palladium giảm 2,2% xuống 886,50 USD.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đẩy lùi thời điểm cắt giảm lãi suất đến cuối năm.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 1,7% xuống 9.775 USD/tấn.
Đồng USD tăng mạnh, song chỉ số giá sản xuất của Mỹ (PPI) trong tháng 5/2024 bất ngờ giảm, đã gây áp lực giá đồng giảm. Chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ (CPI) trong tháng 5/2024 cũng thấp hơn so với dự kiến. Giá đồng đã giảm 11% từ mức cao kỷ lục 11.104,5 USD/tấn đạt được vào tháng 5/2024. Mặc dù giảm nhiều xong các khách hàng vẫn chưa quay trở lại thị trường.
Nhà phân tích Robert Montefusco tại Sucden Financial cho biết hoạt động bán chốt lời trong vài tuần qua đã đè nặng lên giá cả, với mức hỗ trợ chính là 9.500 USD. Ông nói: “Giá sẽ dao động trong phạm vi hiện tại cho đến khi chúng tôi nhận được số liệu tốt hơn về nhu cầu từ thị trường Trung Quốc”.
Các chỉ số bao gồm chỉ số quản lý mua hàng đánh giá hoạt động sản xuất của thị trường nhập khẩu kim loại hàng đầu thế giới - Trung Quốc – sẽ công bố vào cuối tháng. Trước đó, sẽ có dữ liệu về số tiền cho vay của các ngân hàng Trung Quốc và tổng nguồn tài trợ xã hội, điều cho thấy khả năng cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp.
Ed Meir, nhà tư vấn của công ty môi giới Marex đã viết trong một ghi chú hôm thứ Năm: “Thị trường dường như đang trở lại tập trung vào các nguyên tắc cơ bản. Những điều này có vẻ không truyền cảm hứng cho lắm”.
Ông Meir trích dẫn ý kiến của các thương nhân rằng đồng phế liệu - một chất thay thế thông thường cho đồng tinh luyện khi giá cao - "không dễ dàng di chuyển ra ngoài", với nhu cầu từ ngành ô tô đặc biệt yếu. Nhu cầu yếu kém cũng được phản ánh qua lượng hàng tồn kho tăng.
Nhiều đồng đã được giao đến các kho ở Đài Loan và Hàn Quốc có đăng ký với sàn LME vào thứ Tư, do các nhà sản xuất Trung Quốc tận dụng giá LME cao trong tháng 5 để xuất khẩu đồng.
Tồn kho đồng trên sàn LME đã tăng 22% lên 127.343 tấn trong tháng trước.
Về các kim loại cơ bản khác, giá nhôm trên sàn LME giảm 1,3% xuống 2.542,50 USD/tấn, niken giảm 2,3% xuống 17.650 USD, kẽm giảm 1,6% xuống 2.849 USD, chì giảm 0,5% xuống 2.162,50 USD và thiếc mất 2,2% xuống 32.635 USD.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng nhờ kỳ vọng vào động thái mới nhất của Bắc Kinh nhằm vực dậy lĩnh vực bất động sản đang gặp khó khăn, song nhu cầu ngắn hạn yếu và tồn trữ tại các cảng biển Trung Quốc ở mức cao, đã hạn chế đà tăng.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Đại Liên tăng 0,93% lên 817 CNY (112,67 USD)/tấn. Trong phiên trước đó, giá đã giảm hơn 4%.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn Singapore tăng 0,7% lên 106,6 USD/tấn.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,5%, thép cuộn cán nóng tăng 0,4%, thép cuộn tăng 0,16%, trong khi thép không gỉ giảm 1,13%.
Ngân hàng trung ương Trung Quốc hôm thứ Tư đã tổ chức một cuộc họp bàn về giải pháp thúc đẩy hỗ trợ tài chính cho nhà ở giá rẻ nhằm đẩy nhanh doanh số bán nhà tồn kho, nỗ lực mới nhất nhằm vực dậy lĩnh vực bất động sản đang gặp khó khăn.
Pei Hao, nhà phân tích của công ty môi giới quốc tế Freight Investor Services (FIS) có trụ sở tại Thượng Hải, cho biết: “Giá đã lên xuống nhanh chóng trong sáng nay giữa những thông tin trái chiều và đợt tăng mới nhất là do nguồn tài chính cho nhà ở giá rẻ chiếm ưu thế”.
“Ngoài ra, một số hoạt động mua vào sau khi giá giảm liên tục đã mang lại sự hỗ trợ nhất định.”
Nhưng mức tăng bị hạn chế do lo lắng kéo dài về việc thị trường kim loại màu có thể được hưởng lợi chính là xác bao nhiêu từ các biện pháp kích thích khác nhau áp dụng cho lĩnh vực bất động sản.
Nhà phân tích Soni Kumari của ANZ cho biết: “Nhu cầu quặng sắt nhìn chung đang có xu hướng giảm. Chính phủ Trung Quốc đã triển khai nhiều biện pháp kích thích để vực dậy thị trường bất động sản trong hơn một năm nhưng không giúp ích gì”.
Bà cho biết thêm, lượng hàng tồn kho ở mức cao và trừ khi nhu cầu tiêu dùng quay trở lại, giá cả sẽ bị áp lực.
Dữ liệu hôm thứ Tư cho thấy lạm phát tiêu dùng của Trung Quốc giữ ổn định trong tháng 5, nhưng xu hướng cơ bản cho thấy Bắc Kinh sẽ cần phải làm nhiều hơn để thúc đẩy nhu cầu nội địa vẫn yếu kém trong bối cảnh kinh tế phục hồi không đồng đều.
Nông sản: Giá ngô Mỹ tăng lên mức cao nhất 2 tuần, do lo ngại nhiệt độ tại khu vực vành đai trồng ngô của Mỹ tăng.
Những lo lắng về thời tiết toàn cầu cũng giúp hỗ trợ thị trường ngũ cốc, sau khi Bộ Nông nghiệp Mỹ hạ triển vọng tồn trữ ngô và lúa mì thế giới cuối năm 2024-25 trong báo cáo hàng tháng công bố vào thứ Tư. Theo đó, USDA dự báo tồn kho ngô toàn cầu niên vụ 2024/25 giảm xuống 310,77 triệu tấn từ mức 312,27 triệu tấn dự báo vào trong tháng 5. Con số mới cao hơn mức trung bình ước tính của các nhà phân tích là 310,55 triệu tấn. USDA cũng cắt giảm ước tính sản lượng lúa mì ở Nga, nhà cung cấp ngũ cốc hàng đầu thế giới và ở Ukraine, sau những đợt sương giá và khô hạn gây thiệt hại cho vụ mùa.
Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 7/2024 tăng 4-1/4 US cent lên 4,58-1/2 USD/bushel; đậu tương kỳ hạn tháng 7/2024 tăng 12-1/4 US cent lên 11,89-1/2 USD/bushel; lúa mì giao cùng kỳ hạn tăng 3 US cent lên 6,2 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn ICE tăng 0,4% lên 19,17 US cent/lb.
Đồng thời, giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn London tăng 0,5% lên 557,3 USD/tấn.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7 tăng 0,4% lên 19,17 cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 8 tăng 0,5% lên 557,30 USD/tấn.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn London tăng 0,7% lên 4.116 USD/tấn. Tuần trước, giá robusta đã tăng lên mức cao kỷ lục 4.394 USD/tấn. Cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn New York tăng 0,2% lên 2,255 USD/lb, sau khi tăng 1,5% trong phiên trước đó.
Giá cà phê tại Việt Nam tuần này giảm nhẹ khi vụ thu hoạch tại Brazil bắt đầu, song giá tại Indonesia bất ngờ biến động.
Giá cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) chào bán ở mức cộng 600-700 USD/tấn. Cà phê nhân xô được bán với giá 120.000-121.000 VND (4,72-4,76 USD)/kg, giảm nhẹ so với 123.500-125.000 VND/kg cách đây một tuần. Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 1.050 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn London, giảm so với mức cộng 1.350 USD/tấn 1 tuần trước đó.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm theo xu hướng giá cao su tổng hợp giảm khi giá dầu thô suy yếu trong phiên thứ Tư (thị trường châu Á đóng cửa trước thị trường phương Tây), trong khi thuế quan đối với xe điện của nước tiêu thụ cao su lớn – Trung Quốc – cũng gây áp lực thị trường.
Kết thúc phiên này, cao su kỳ hạn tháng 11/2024 trên sàn Osaka (OSE) giảm 7,9 JPY tương đương 2,25% xuống 343 JPY (2,18 USD)/kg; cao su kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Thượng Hải giảm 110 CNY xuống 15.485 CNY (2.135,45 USD)/tấn; cao su kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn Singapore giảm 2,04% xuống 177,3 US cent/kg.
Cao su tự nhiên thường có xu hướng biến động cùng chiều với giấ dầu, bởi chịu sự cạnh tranh với cao su tổng hợp - sản xuất từ dầu thô.
Hợp đồng cao su butadien giao tháng 7 - sôi động nhất trên sàn SHFE - giảm 175 nhân dân tệ xuống 15.830 nhân dân tệ (2.183,03 USD)/tấn.
Ủy ban châu Âu cho biết họ sẽ áp thuế bổ sung lên tới 38,1% đối với ô tô điện nhập khẩu từ Trung Quốc từ tháng 7. EU có nguy cơ bị Bắc Kinh trả đũa vì cho biết sẽ thực hiện các biện pháp để bảo vệ lợi ích của mình.
Thuế quan có thể có tác động sâu rộng đối với các nhà sản xuất ô tô châu Âu, vì một cuộc chiến thương mại có thể xảy ra sẽ không chỉ gây tổn hại cho hoạt động kinh doanh của họ ở Trung Quốc mà còn ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu ô tô do Trung Quốc sản xuất của chính họ.
Doanh số bán ô tô có thể ảnh hưởng đến cường độ sản xuất ô tô, bao gồm việc sử dụng lốp làm từ cao su.
Jom Jacob, nhà phân tích trưởng của công ty phân tích có trụ sở tại Ấn Độ, cho biết: “Về cao su hàng thực, tình trạng bất thường là lượng cung mủ cao su ở Thái Lan và các nước sản xuất lớn khác ở Đông Nam Á vẫn ở mức thấp”.
Ông nói thêm rằng trong khi hy vọng về việc Trung Quốc “sắp mua mạnh” trong bối cảnh tồn kho cao su tự nhiên giảm đang “hỗ trợ phần nào”.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

78,25

-0,37

-0,47%

Dầu Brent

USD/thùng

82,46

-0,29

-0,35%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

242,07

+0,51

+0,21%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,93

-0,03

-1,12%

Dầu đốt

US cent/gallon

249,19

+0,51

+0,21%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.319,60

+1,60

+0,07%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.306,68

+2,47

+0,11%

Bạc (Comex)

USD/ounce

29,04

-0,03

-0,09%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

956,95

+4,14

+0,43%

Đồng (Comex)

US cent/lb

449,20

+1,20

+0,27%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.794,50

-150,00

-1,51%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.557,00

-18,50

-0,72%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.860,00

-34,00

-1,17%

Thiếc (LME)

USD/tấn

32.794,00

-571,00

-1,71%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

456,50

-2,00

-0,44%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

616,25

-3,75

-0,60%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

333,00

+4,50

+1,37%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

15,59

+0,04

+0,26%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.156,75

-3,50

-0,30%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

355,20

-2,00

-0,56%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

43,87

+0,01

+0,02%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

638,90

-1,00

-0,16%

Cacao (ICE)

USD/tấn

10.110,00

+257,00

+2,61%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

226,25

+1,40

+0,62%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

19,64

+0,56

+2,93%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

411,30

-14,65

-3,44%

Bông (ICE)

US cent/lb

71,92

+0,13

+0,18%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

176,70

-1,30

-0,73%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

 

Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)