menu search
Đóng menu
Đóng

Tổng hợp thị trường hàng hóa TG phiên 12/6: Giá đồng loạt tăng

11:00 13/06/2024

Giá dầu, vàng, cao su, cà phê, đường… đồng loạt tăng trong phiên thứ Tư (12/6) do đồng USD yếu đi sau khi Mỹ kết thúc kỳ họp chính sách.
 
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã kết thúc kỳ họp 2 ngày, thông báo quyết định giữ lãi suất ổn định, với khả năng sẽ chỉ cắt giảm lãi suất 1 lần trong năm 2024.
Năng lượng: Giá dầu tăng do căng thẳng đang diễn ra ở Trung Đông, nhưng thông tin việc cắt giảm lãi suất có thể bắt đầu vào cuối tháng 12 - sau tuyên bố của Cục Dự trữ Liên bang kết thúc hai ngày - đã hạn chế mức tăng.
Kết thúc phiên, giá dầu Brent tăng 68 US cent, tương đương 0,83%, lên 81,6 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 60 US cent, tương đương 0,77%, lên 78,5 USD/thùng.
Tuần trước, giá dầu đã giảm hơn 2% sau khi OPEC và các đồng minh cho biết sẽ loại bỏ dần việc cắt giảm sản lượng bắt đầu từ tháng 10/2024.
Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken hôm thứ Tư cho biết nhóm chiến binh Palestine Hamas đã đề xuất nhiều thay đổi về lệnh ngừng bắn với Israel ở Gaza, một số không thể thực hiện được.
Tại cuộc họp báo với Thủ tướng Qatar ở Doha, Blinken cho biết một số đề xuất phản đối từ Hamas, lực lượng cai trị Gaza từ năm 2007, đã tìm cách sửa đổi các điều khoản mà họ đã chấp nhận trong các cuộc đàm phán trước đó.
Chiến tranh vẫn chưa ảnh hưởng đáng kể đến nguồn cung dầu toàn cầu, nhưng các nhà đầu tư đã đánh giá rủi ro, đẩy giá dầu thô kỳ hạn tăng lên.
Trong khi đó, các nhà đầu tư lại thất vọng sau khi Cục Dự trữ Liên bang đẩy lùi thời điểm bắt đầu cắt giảm lãi suất có lẽ là vào cuối tháng 12, với các quan chức dự kiến chỉ giảm một phần tư điểm phần trăm trong năm nay trong bối cảnh ngày càng thấy còn nhiều điều cần làm trong cuộc chiến chống lạm phát.
Dữ liệu giá tiêu dùng của Mỹ công bố hôm thứ Tư đã củng cố kỳ vọng về việc Fed sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 9. Chủ tịch Fed Jerome Powell sẽ tổ chức một cuộc họp báo vào thứ Tư.
Ben McMillan, nhà quản lý quỹ của IDX Advisors, cho biết: “Sẽ rất thú vị khi xem những gì ông Powell nói. Tôi không nghi ngờ gì về việc họ sẽ giữ nguyên lãi suất ở mức hiện tại”.
Chi phí đi vay cao có xu hướng làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế và có thể hạn chế nhu cầu dầu mỏ.
Tim Snyder, chuyên gia kinh tế tại Matador Economics, cho biết: “Thị trường hiện đang nín thở”. “Nếu Powell nói ngoài những gì Fed công bố, có thể có một chút bất hòa trong ủy ban chính sách về định hướng lãi suất của họ”.
Ở những nơi khác, Phó Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Châu Âu Luis de Guindos cho biết ECB phải tiến hành "rất chậm" trong việc giảm lãi suất do còn có nhiều sự không chắc chắn về triển vọng lạm phát.
Cơ quan Thông tin Năng lượng (EIA) hôm thứ Tư cho biết các kho dự trữ dầu thô của Mỹ bất ngờ tăng 3,7 triệu thùng lên 459,7 triệu thùng, trái với dự đoán là giảm 1 triệu thùng.
EIA cho biết tồn kho xăng tăng hơn dự kiến, tăng 2,6 triệu thùng lên 233,5 triệu thùng, nhiều hơn so với kỳ vọng của các nhà phân tích trong cuộc thăm dò của Reuters, là tăng 900.000 thùng.
Tuy nhiên, về lâu dài, EIA, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) và Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ trong tuần này đã cập nhật quan điểm của họ về cân bằng cung-cầu dầu toàn cầu năm 2024, dự đoán tồn kho dầu toàn cầu sẽ giảm.
Kim loại quý: Giá vàng tăng mạnh vào lúc mở cửa giao dịch, nhưng hạ nhiệt vào cuối phiên, sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cho biết chỉ cắt giảm lãi suất 1 lần duy nhất trong năm nay do lạm phát vẫn ở mức cao.
Giá vàng giao ngay kết thúc phiên tăng 0,3% lên 2.322,46 USD/ounce, sau khi tăng mạnh 1% lúc đầu phiên giao dịch, được hỗ trợ bởi báo cáo lạm phát tiêu dùng của Mỹ thấp. Vàng kỳ hạn tương lai tăng 1,2% lên 2.354,8 USD/ounce.
“Fed không hạ cũng không tăng lãi suất, vì vậy các nhà đầu tư chuyển sang các tài sản ít rủi ro hơn, bao gồm cả vàng, do đó giá tăng rất cao”, Jeffrey Christian, đối tác quản lý của CPM Group cho biết.
Chủ tịch Fed Jerome Powell cho biết triển vọng lạm phát do Fed đưa ra là “dự báo khá thận trọng”, có thể không được xác nhận bởi dữ liệu sắp tới và có thể được sửa đổi.
Ông Powell nói thêm rằng dữ liệu chỉ số giá tiêu dùng lạm phát tốt hơn mong đợi là điều mà các quan chức hoan nghênh.
Tai Wong, nhà phân tích độc lập ở New York, cho biết: “Powell thừa nhận rằng FOMC có cơ hội thay đổi các dự báo sau khi xem dữ liệu ngày hôm nay và việc ông nhấn mạnh rằng đó là MỘT báo cáo tốt sẽ gửi một thông điệp rõ ràng”. “Vàng sẽ tiếp tục giao dịch với dữ liệu việc làm và lạm phát.”
Chỉ số giá tiêu dùng toàn phần của Mỹ trong tháng 5 không thay đổi so với tháng trước, dưới mức kỳ vọng là tăng 0,1%. Lạm phát lõi tăng 0,2%, cũng thấp hơn dự đoán của các nhà kinh tế là tăng 0,3%.
Chỉ số Dollar index giảm 0,6% sau thông báo kết luận cuộc họp của Fed.
Tỷ lệ đặt cược về việc cắt giảm lãi suất tại cuộc họp của Fed vào tháng 9 đã giảm xuống khoảng 64% từ mức khoảng 71% trước khi Fed đưa ra quyết định.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 1,5% lên 29,69 USD/ounce, bạch kim tăng 1,2% lên 962,85 USD và palladium tăng 2,6% lên 907,01 USD.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng trên Sàn thương mại London (LME) tăng do đồng USD giảm sau khi số liệu lạm phát của Mỹ thấp hơn so với dự kiến làm gia tăng kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có thể cắt giảm lãi suất ngay sau tháng 9/2024.
Kết thúc phiên, giá đồng trên sàn London tăng 1,8% lên 9,937,5 USD/tấn. Giá đã chạm mức thấp nhất 7 tuần (9.680 USD/tấn) trong phiên 10/6/2024. Giá đã giảm 11% kể từ mức cao kỷ lục 11.104,5 USD/tấn đạt được hôm 20/5/2024.
Trong khi đó, giá thiếc tăng 4,4% lên 33.305 USD/tấn, sau khi giảm xuống mức thấp nhất 1 tháng trong tuần trước.
Các nhà giao dịch cho biết kỳ vọng về một tuyên bố ôn hòa từ Fed khi cơ quan này kết thúc cuộc họp chính sách vào cuối ngày và đồng đô la Mỹ giảm giá - khiến kim loại được định giá bằng đồng đô la trở nên rẻ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác - đã kích thích hoạt động mua kim loại công nghiệp trên diện rộng.
Dan Smith, người phụ trách bộ phận nghiên cứu tại Amalgamated Metal Trading, cho biết về mặt nguyên tắc cơ bản, các yếu tố thúc đẩy nhu cầu dài hạn đối với đồng, bao gồm cả trí tuệ nhân tạo, vẫn chưa thành hiện thực.
Ông cho biết: “Nhu cầu đồng đã giảm nhẹ khi có nhiều nhà máy sản xuất dây thép cắt hoạt động trong tháng 5 sau đợt tăng mạnh”.
Mức tồn kho cao cho thấy nhu cầu mua hàng mờ nhạt. Tồn kho đồng trong các kho được giám sát bởi Sở giao dịch tương lai Thượng Hải (ShFE) vẫn ở mức cao nhất trong 4 năm, là 336.964 tấn.
Đối với các kim loại khác, giá thiếc tăng 4,4% lên 33.305 USD, sau khi giảm xuống mức thấp nhất một tháng vào tuần trước. Giá đã tăng lên trên đường trung bình động 21 ngày và 55 ngày để cho thấy xu hướng tăng tiếp theo. Tính từ đầu năm đến nay, giá thiếc đã tăng khoảng 32%.
Tồn kho thiếc trên sàn ShFe đã giảm 9,4% kể từ đầu tháng 6, xuống còn 16.297 tấn.
Về các kim loại cơ bản khác, giá nhôm tăng 1,3% lên 2.566 USD, kẽm tăng 4% lên 2.879,5 USD, chì tăng 0,8% lên 2.173 USD và niken tăng 0,7% lên 17.935 USD.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm do nhu cầu ngắn hạn giảm, tồn trữ tại các cảng ở mức cao và đồng USD tăng mạnh, mặc dù số liệu kinh tế tại nước tiêu thụ hàng đầu thế giới – Trung Quốc – được cải thiện.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Đại Liên giảm 0,92% xuống 810,5 CNY (111,74 USD)/tấn. Trong phiên trước đó, giá đã giảm hơn 4%.
Trong khi đó, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn Singapore tăng 0,43% lên 104,65 USD/tấn.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 0,11%, thép cuộn giảm 0,18%, trong khi thép cuộn cán nóng và thép không gỉ không thay đổi.
Theo dữ liệu chính thức hôm thứ Tư cho thấy lạm phát giá tiêu dùng của Trung Quốc được giữ ổn định trong tháng 5, trong khi mức giảm giá sản xuất đã giảm bớt.
Giá sản xuất, vốn bị mắc kẹt trong tình trạng giảm phát kể từ tháng 9 năm 2022, đã giảm với tốc độ chậm lại trong tháng 5, là giảm 1,4% sau khi giảm 2,5% trong tháng 4 và so với mức giảm 1,5% được dự báo.
Các nhà phân tích tại Soochow Futures dự báo giá sẽ tiếp tục xu hướng giảm trong tuần này, do nhu cầu yếu, nhập khẩu tương đối ổn định và lượng hàng tồn kho tại cảng tăng thêm.
Các nhà phân tích tại Shengda Futures cho biết: “Thị trường nhìn chung nhận định rằng sản lượng kim loại nóng đã đạt đỉnh do nhu cầu thép suy yếu đã hạn chế sự quan tâm của các nhà máy trong việc tăng cường sản xuất”.
Nông sản: Giá lúa mì Mỹ giảm 1,5% do lo ngại lượng cung hàng xuất khẩu trên toàn cầu và tồn trữ của Mỹ tăng, mặc dù sản lượng vụ thu hoạch lúa mì tại Nga giảm.
Giá ngô phiên này tăng trong khi đậu tương giảm sau khi báo cáo cung/cầu hàng tháng của Bộ Nông nghiệp Mỹ đưa ra một số bất ngờ về biến động thị trường.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì kỳ hạn tháng 7/2024 giảm 9-1/2 US cent xuống 6,17 USD/bushel, song vẫn cao hơn mức thấp nhất 5 tuần (6,05-1/2 USD/bushel) trong phiên ngày 10/6/2024. Giá ngô kỳ hạn tháng 7/2024 tăng 4-3/4 US cent lên 4,54-1/4 USD/bushel, trong khi giá đậu tương giao cùng kỳ hạn giảm 3/4 US cent xuống 11,77-1/4 USD/bushel.
USDA hạ dự báo thu hoạch lúa mì niên vụ 2024-2025 của Nga xuống còn 83 triệu tấn, mức thấp nhất trong 3 năm, giảm từ mức 88 triệu tấn vào tháng trước. USDA dự kiến xuất khẩu từ Nga, nhà cung cấp hàng đầu thế giới, ở mức 48 triệu tấn, giảm so với dự báo hồi tháng 5 là 52 triệu tấn.
Tuy nhiên, USDA đã nâng ước tính sản lượng lúa mì niên vụ 2024/25 của Mỹ lên 1,875 tỷ bushel, mức cao nhất trong 5 năm, so với dự báo hồi tháng 5 là 1,858 tỷ bushel. Chính phủ cũng nâng dự báo lượng lúa mì toàn cầu còn lại vào cuối năm marketing 2023/24 lên 259,56 triệu tấn.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn ICE tăng 0,31 US cent tương đương 1,6% lên 19,1 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn London tăng 1,5% lên 554,8 USD/tấn.
Thị trường xuất hiện những lo ngại về thời tiết ở một số nơi trên thế giới, bao gồm cả Brazil, nơi thời tiết hiện rất khô hạn và Ấn Độ. Mùa mưa ở Ấn Độ không có nhiều mưa như thông lệ, có thể kéo dài các đợt nắng nóng ở các khu vực trồng trọt.
Nhà sản xuất đường lớn nhất Australia hôm thứ Tư đã tạm thời ngừng hoạt động tại một nhà máy bắt đầu chế biến mía hai ngày trước sau khi các công đoàn vận động đòi trả lương cao hơn cho biết công nhân sẽ nghỉ việc.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn London tăng 33 USD tương đương 0,8% lên 4.086 USD/tấn. Trong tuần trước, giá cà phê đạt mức cao kỷ lục 4.394 USD/tấn; cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn ICE tăng 1,5% lên 2,2485 USD/lb.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng theo xu hướng giá cao su tổng hợp tăng, song số liệu kinh tế Trung Quốc yếu kém đã hạn chế đà tăng.
Giá cao su kỳ hạn tháng 11/2024 trên sàn Osaka (OSE) tăng 4,4 JPY tương đương 1,27% lên 350,9 JPY (2,23 USD)/kg, tăng nhẹ từ mức giảm 2,81% trong phiên trước đó. Cao su kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Thượng Hải tăng 45 CNY lên 15.805 CNY (2.178,95 USD)/tấn. Cao su kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn Singapore tăng 1,46% lên 180,6 US cent/kg.
Cao su tự nhiên thường chịu sự điều chỉnh của giá dầu khi cạnh tranh thị phần với cao su tổng hợp được sản xuất từ dầu thô. Hợp đồng cao su butadien giao tháng 7 - sôi động nhất trên sàn SHFE - đã tăng 840 nhân dân tệ, tương đương 5,35%, kết thúc ở mức 16.555 nhân dân tệ (2.282,35 USD)/tấn.
Lạm phát giá bán buôn của Nhật Bản trong tháng 5 tăng vọt với tốc độ hàng năm nhanh nhất trong 9 tháng, một dấu hiệu cho thấy đồng yên yếu đang tạo thêm áp lực lên giá cả.
Dữ liệu từ Hiệp hội Xe khách Trung Quốc cho thấy, doanh số bán ô tô chở khách của Trung Quốc trong tháng 5 đã giảm 2,2% so với cùng kỳ năm ngoái, do nhu cầu suy giảm vẫn tồn tại ở thị trường ô tô lớn nhất thế giới trong bối cảnh kinh tế phục hồi chậm chạp.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

78,21

-0,29

-0,37%

Dầu Brent

USD/thùng

82,29

-0,31

-0,38%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

238,28

-1,16

-0,48%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

3,02

-0,03

-0,85%

Dầu đốt

US cent/gallon

243,29

-0,79

-0,32%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.329,00

-25,80

-1,10%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.314,31

-10,67

-0,46%

Bạc (Comex)

USD/ounce

29,17

-1,10

-3,62%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

950,32

-11,49

-1,19%

Đồng (Comex)

US cent/lb

450,20

-5,75

-1,26%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.944,50

+185,50

+1,90%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.575,50

+42,00

+1,66%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.894,00

+123,00

+4,44%

Thiếc (LME)

USD/tấn

33.365,00

+1.452,00

+4,55%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

455,75

+1,50

+0,33%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

618,00

+1,00

+0,16%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

329,00

-1,75

-0,53%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

15,33

+0,02

+0,10%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.173,75

-3,50

-0,30%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

360,70

+0,50

+0,14%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

43,64

-0,15

-0,34%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

642,40

-6,00

-0,93%

Cacao (ICE)

USD/tấn

9.853,00

+599,00

+6,47%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

224,85

+3,40

+1,54%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

19,08

+0,33

+1,76%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

425,95

+16,35

+3,99%

Bông (ICE)

US cent/lb

71,44

-0,21

-0,29%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

177,50

-4,20

-2,31%

 

 

Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)