menu search
Đóng menu
Đóng

Giày dép xuất khẩu chủ yếu sang Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản

12:33 03/04/2018

Vinanet -2 tháng đầu năm, xuất khẩu giày dép tăng 11% so với cùng kỳ năm 2017, đạt 2,25 tỷ USD.

Theo tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan, mặc dù trong tháng 2/2018 xuất khẩu giày dép của Việt Nam ra nước ngoài sụt giảm rất mạnh gần 41% so với tháng đầu năm, chỉ đạt 837,31 triệu USD, nhưng tính chung cả 2 tháng đầu năm, xuất khẩu vẫn tăng 11% so với cùng kỳ năm 2017, đạt 2,25 tỷ USD.

Giày dép của Việt Nam xuất khẩu nhiều nhất sang thị trường Mỹ, chiếm 35,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép của cả nước, đạt 800,23 triệu USD, tăng 22,5% so với cùng kỳ năm 2017.

Thị trường EU chiếm 28,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam, đạt 637,5 triệu USD, giảm 1,7%.

Giày dép xuất khẩu sang Trung Quốc tăng 29,5% so với cùng kỳ, đạt 226,53 triệu USD, chiếm 10%; sang Nhật Bản chiếm 7%, tăng 25%, đạt 160,99 triệu USD.

Trong 2 tháng đầu năm nay, xuất khẩu giày dép sang đa số các thị trường đều tăng kim ngạch so với cùng kỳ năm 2017; trong đó, xuất khẩu tăng mạnh ở một số thị trường như: Ấn Độ tăng 110,3%, đạt 14,07 triệu USD, Bồ Đào Nha tăng 66%, đạt 0,4 triệu USD, Séc tăng 64,6%, đạt 12,14 triệu USD, Thổ Nhỹ Kỳ tăng 44,8%, đạt 3,27 triệu USD.

Theo nhận định của Hiệp hội Dệt may, Da giày, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đang mở ra cho ngành da giày nhiều cơ hội mới.

Theo ông Diệp Thành Kiệt, Phó chủ tịch Hiệp hội da giày TP.HCM, việc Mỹ rút ra khỏi hiệp định TPP không làm ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung và ngành da giày nói riêng. Một điển hình rõ nhất là trong năm 2017, số liệu thống kê chính thức của Tổng cục Thống kê cho thấy, ngành giày vẫn giữ được tăng trưởng bình quân so với các năm trước khoảng 12%.

Tuy nhiên, CPTPP lại mang đến cho Việt Nam những cơ hội. Trong đó cơ hội số 1 là chúng ta có bước đệm để chuẩn bị vì nếu chúng ta có ngay TPP với Mỹ thì sự chuẩn bị của chúng ta rất cập rập còn nếu có CPTPP trước thì chúng ta sẽ có thời gian chuẩn bị vì tiêu chuẩn của CPTPP gần giống với tiêu chuẩn của TPP chỉ khác là không có thị trường Mỹ.

Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, riêng CPTPP đã giúp cho Việt Nam tăng trưởng 1% GDP, đây là một tín hiệu tốt. Hi vọng trong những năm sắp tới với sự thay thế Đảng Dân chủ Mỹ sẽ lại tiếp tục tham gia vào CPTPP. Hiện nay chính quyền Donal Trump cũng đã để mở cơ hội tham gia vào CPTPP. Đây là bước đệm tốt và cũng phải là thời gian dài, chậm nhất là 4 năm thì một số nước sẽ thấy lợi ích của CPTPP và sẽ tiếp tục tham gia. Như vậy, chúng ta sẽ có một thị trường rộng lớn hơn thị trường hiện có.

Nhìn một cách tổng thể CPTPP giúp rất nhiều ngành kinh tế ở Việt Nam do các FTA thế hệ mới trong đó có CPTPP đều có yêu cầu cao về mặt thể chế, sử dụng vốn công... đó là những vấn đề đang nhức nhối của chính phủ. Do vậy, các FTA này sẽ tạo áp lực đòi hỏi chính phủ phải có những cải tiến. Vì vậy, cho dù DN có không được hưởng lợi ích trực tiếp từ các FTA này nhưng cũng sẽ được hưởng lợi ích từ các chính sách cải cách về thể chế. Bên cạnh đó, CPTPP cũng sẽ giúp ích cho nhiều ngành trong nước, trong đó có ngành da giày vì trong 10 nước tham gia CPTPP chỉ có 3 nước chưa có FTA là Mexico, Canada, Australia. Tuy không mang lại sự thay đổi lớn về cục diện nhưng đây đều là các thị trường tiềm năng có yêu cầu về sản phẩm cao cấp. Do vậy, đây là cơ hội để Việt Nam tham gia vào các nước này mà không phải đàm phán với riêng từng nước.

Liên quan đến việc thu hút FDI hậu CPTPP, ông Kiệt cho biết, khi Mỹ rút khỏi TPP thì FDI vào một số ngành phụ trợ như dệt may, sản xuất sợi, vải cho da giày có phần giảm hơn trước. Tuy nhiên, việc Việt Nam ký CPTPP cũng sẽ là động lực để các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam khởi động lại các dự án đầu tư. Trong tương lai với sự trở lại của Mỹ vào Hiệp định CPTPP, hoạt động đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực này sẽ nóng trở lại và có sự tăng trưởng vững chắc hơn.

 

Xuất khẩu giày dép 2 tháng đầu năm 2018

ĐVT: USD

Thị trường

T2/2018

2T/2018

(%)T2 so với T1/2018

(%) 2T/2018 so với cùng kỳ

Tổng kim ngạch XK

837.308.064

2.253.459.506

-40,91

11,03

Mỹ

294.216.642

800.234.215

-41,88

22,48

Trung Quốc

97.060.687

226.529.883

-25,08

29,5

Nhật Bản

62.747.559

160.994.058

-36,23

25,03

Đức

40.354.507

126.134.897

-53,03

-11,17

Bỉ

41.969.909

125.505.140

-49,76

-2,47

Anh

32.586.266

97.520.928

-49,82

3,84

Hàn Quốc

32.753.391

83.050.510

-34,88

15,31

Hà Lan

27.573.857

82.962.891

-50,26

-13,55

Pháp

31.751.815

75.848.029

-27,99

5,41

Italia

15.332.595

45.509.641

-49,19

12,81

Tây Ban Nha

14.210.783

36.755.928

-37,14

25,04

Canada

12.825.077

35.724.054

-43,99

8,55

Mexico

13.126.519

34.201.580

-37,72

-18,79

Australia

12.747.381

30.969.663

-30,08

-0,45

Hồng Kông

10.290.814

25.482.678

-32,26

6,48

Brazil

9.072.765

22.712.324

-33,48

-17,3

Đài Loan

6.931.958

19.888.640

-46,5

5,29

Achentina

6.909.476

16.093.111

-25,01

32,63

Chile

5.431.241

14.833.419

-42,26

10,53

Ấn Độ

4.140.292

14.074.192

-58,32

110,25

Panama

5.145.268

12.987.496

-34,39

-27,44

Nam Phi

5.082.468

12.552.288

-31,96

-18,02

Séc

5.301.444

12.139.173

-22,47

64,55

U.A.E

3.572.140

11.690.461

-56,05

-29,28

Slovakia

2.659.618

10.846.328

-67,51

-11,71

Singapore

3.933.730

10.487.571

-39,98

40,37

Nga

2.874.908

8.980.572

-52,91

-14,89

Philippines

3.114.587

8.181.618

-38,53

-0,63

Thụy Điển

2.149.292

7.920.566

-62,76

0,93

Malaysia

3.708.969

7.735.371

-7,87

10,51

Thái Lan

3.135.788

7.713.234

-31,53

3,75

Indonesia

1.719.459

5.858.166

-58,45

-5,58

Đan Mạch

1.486.884

4.954.042

-57,12

-22,99

Israel

1.535.138

4.468.648

-47,67

-13,74

Áo

1.155.972

4.110.488

-60,87

3,59

Na Uy

1.211.426

3.636.513

-50,05

-7,47

New Zealand

1.263.338

3.585.224

-45,59

-13,05

Ba Lan

2.066.239

3.390.369

55,94

-28,79

Thổ Nhĩ Kỳ

2.108.516

3.265.349

81,5

44,84

Thụy Sỹ

874.059

3.164.297

-61,84

-2,82

Phần Lan

727.086

1.858.000

-35,71

6,53

Hy Lạp

792.849

1.586.219

-0,07

-9,1

Ukraine

91.545

477.972

-76,31

-54,79

Bồ Đào Nha

 

404.724

-100

66

Hungary

 

57.511

-100

-37,16

(Vinanet tính toán từ số liệu của TCHQ)

 

Nguồn:Vinanet