Trên thị trường năng lượng, giá dầu quay đầu giảm sau khi chạm mức cao nhất 11 tháng khi giới đầu tư đẩy mạnh hoạt động bán chốt lời.
Trên thị trường New York, giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 7/2016 giảm 67 US cent xuống 50,56 USD/thùng. Trong phiên trước đó, giá đã lập mức cao nhất kể từ tháng 7/2015. Tại London, giá dầu Brent Biển Bắc giao tháng 8 giảm 56 US cent xuống 51,95 USD/thùng.
Tuy giảm nhẹ song giá dầu hiện vẫn quanh mức cao nhất 10 tháng trong bối cảnh nguồn cung gián đoạn và dầu lưu kho Mỹ giảm.
Theo giới quan sát, diễn biến hiện tại được coi là điều chỉnh mang tính kỹ thuật của thị trường sau ba ngày giá tăng liên tục. Mặc dù hoạt động bán chốt lời đang diễn ra, thị trường vàng đen vẫn được hỗ trợ bởi nhiều nhân tố vững vàng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) hôm thứ Tư 8/6 cho biết, lượng dầu lưu kho của mỹ trong tuần kết thúc vào 3/6 giảm 3,2 triệu thùng - dấu hiệu cho thấy nhu cầu dầu thô tăng lên vào thời điểm bắt đầu mùa lái xe du lịch mùa hè.
Nhóm phiến quân Niger Delta Avenger đã thề sẽ làm ngưng trệ hoạt động sản xuất dầu thô của Nigeria. Các cuộc tấn công vào hệ thống đường ống dẫn dầu và cơ sở sản xuất đã khiến sản lượng dầu thô của Nigeria giảm xuống còn 1 triệu thùng/ngày.
Cả giá dầu Brent và WTI đều đã tăng hơn 80% từ mức đáy đầu năm nay do cắt giảm sản lượng và gián đoạn nguồn cung, làm tăng hy vọng tình trạng thừa cung toàn cầu cuối cùng cũng bắt đầu giảm.
Chuyên gia Carl Larry của Frost & Sullivan dự đoán giá dầu có thể chạm ngưỡng 55 USD/thùng trong tuần tới, và lý giải rằng nhu cầu đối với mặt hàng này đang mạnh trong khi nguồn cung có phần sa sút.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao nhất 3 tuần khi lợi tức trái phiếu Mỹ và chứng khoán toàn cầu giảm và đồn đoán Fed giữ nguyên lãi suất.
Giá vàng giao ngay tăng 0,6% lên 1.269,66 USD/ounce. Trong phiên có lúc giá tăng 0,8% lên 1.271,31 USD/ounce, cao nhất kể từ 18/5. Giá vàng giao tháng 8/2016 tăng 0,8% lên 1.272,7 USD/ounce, cao nhất kể từ 1/5.
Giá hàng hóa nói chung và cổ phiếu trên các thị trường chủ chốt đều giảm, đẩy tăng yên Nhật khi giới đầu tư đổ tiền vào tài sản rủi ro thấp do lo ngại về tình trạng lạm phát thấp và lãi suất âm kéo dài. Chỉ số đôla thoát khỏi đáy 5 tuần ghi nhận hôm thứ Tư 8/6.
Giới đầu tư cũng dự đoán Fed sẽ không nâng lãi suất trong phiên họp 14-15/6 và giảm tỷ lệ dự đoán tỷ lệ này trong tháng 7 xuống 26%.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 1,8% lên 17,33 USD/ounce, cao nhất 3 tuần, trong khi đó, giá bạch kim giảm 0,2% xuống 1.003,18 USD/ounce và giá palladium giảm 0,2% xuống 558,75 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng giảm xuống mức thấp nhất gần 4 tháng cũng bởi USD mạnh lên cộng thêm lo ngại từ phía các nhà đầu tư về việc thừa cung.
Đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 2% xuống 4.485,50 USD/tấn, thấp nhất kể từ 12/2.
Trên thị trường nông sản, đậu tương tăng tuần thứ 9 liên tiếp – dài nhất trong vòng 43 năm, do nguồn cung ở Nam Mỹ sụt giảm và nghi ngờ về triển vọng sản lượng của Mỹ.
Cà phê arabica lập kỷ lục cao nhất 13 tháng bởi lo ngại sương giá sẽ ảnh hưởng tới sả lượng của Brazil. Đường cũng tăng giá.
Arabica kỳ hạn giao tháng 7 giá tăng 2,05 US cent hay 1,4% lên 1,4155 USD/lb. Cà phê robusta vững ở mức 1.697 USD/tấn với cùng kỳ hạn.
Hoạt động giao dịch cà phê châu Á tuần này tăng khi nông dân tại Việt Nam - nước sản xuất Robusta lớn nhất thế giới - “xả kho” để tranh thủ thời điểm giá lên và do nhu cầu tăng trước khi mùa thu hoạch cà phê tại Indonesia vào chính vụ.
Xuất khẩu cà phê của Việt Nam và Indonesia tăng - 2 nước cung cấp gần 30% tổng sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ 2015-2016 - có thể giúp thu hẹp thâm hụt nguồn cung - được dự đoán trong năm nay.
Mức cộng giá cà phê Robusta Việt Nam giao tháng 9/2016 loại 2, 5% đen vỡ thu hẹp xuống 20-30 USD/tấn so với 30-40 USD/tấn một tuần trước.
Trong khi đó, mức cộng giá cà phê Indonesia giao tháng 9/2016 tăng lên 100-140 USD/tấn so với 110-130 USD/tấn tuần trước ngay trước khi vụ thu hoạch cao điểm vào tháng tới do nhu cầu tăng trong bối cảnh lượng cà phê lưu kho thiếu hụt.
Sản lượng cà phê của Indonesia niên vụ 2016-2017 được dự đoán giảm 15% so với năm trước xuống 10 triệu bao, trong khi xuất khẩu ước tính giảm 18% xuống 7,9 triệu bao, theo báo cáo của tùy viên Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA).
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
50,56
|
-0,67
|
-1,3%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
51,95
|
-0,56
|
-1,1%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
32.900,00
|
-470,00
|
-1,41%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,59
|
-0,03
|
-0,99%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
161,52
|
-0,34
|
-0,21%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
155,10
|
-0,02
|
-0,01%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
460,25
|
-0,25
|
-0,05%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
45.910,00
|
-420,00
|
-0,91%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.269,00
|
+3,70
|
+0,29%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.342,00
|
+32,00
|
+0,74%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,29
|
+0,02
|
+0,13%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
59,30
|
+0,60
|
+1,02%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
997,35
|
-5,75
|
-0,57%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
557,09
|
-3,08
|
-0,55%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
203,75
|
-0,15
|
-0,07%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
4.515,00
|
-63,00
|
-1,38%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.577,00
|
-27,00
|
-1,68%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.069,50
|
+6,50
|
+0,32%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
17.025,00
|
-65,00
|
-0,38%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
424,25
|
-2,25
|
-0,53%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
508,50
|
-1,75
|
-0,34%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
204,00
|
-1,25
|
-0,61%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,27
|
-0,05
|
-0,44%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.151,75
|
-1,00
|
-0,09%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
414,00
|
+0,50
|
+0,12%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
33,04
|
+0,01
|
+0,03%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
526,10
|
0,00
|
0,00%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.094,00
|
+2,00
|
+0,06%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
133,95
|
+5,70
|
+4,08%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,80
|
+0,14
|
+0,71%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
166,60
|
+2,30
|
+1,40%
|
Bông
|
US cent/lb
|
65,44
|
+0,14
|
+0,21%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
302,70
|
+10,00
|
+3,42%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
149,70
|
-1,10
|
-0,73%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,68
|
-0,01
|
-0,36%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet