Trên thị trường năng lượng, giá dầu vọt lên mức cao nhất gần 1 tháng sau khi mỏ dầu lớn nhất của Libya lại đóng cửa.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giá tăng 84 cent ở mức 53,08 USD/thùng, trong khi đó dầu Brent giao tăng 70 cent lên mức 55,95 USD/thùng, gần chạm mức kỷ lục một tháng thứ 6 tuần trước là 56,08 USD/thùng.
Mỏ dầu lớn nhất của Libya, Al – Sharara, lại đóng cửa với nguyên nhân được cho là bởi một nhóm người đã chặn đường ống dẫn dầu khiến nguồn cung bị gián đoạn. Mỏ dầu này mới chỉ hoạt động trở lại từ đầu tháng Tư sau một tuần bị chặn bởi các thế lực vũ trang, khiến sản lượng giảm khoảng 252.000 thùng/ngày, tương đương 1/3 tổng sản lượng. Sự gián đoạn này khiến giá dầu càng tăng thêm sau sự kiện Mỹ tấn công Syria bằng hàng loạt đợt tên lửa.
Giá dầu thô cũng được hỗ trợ bởi thỏa thuận cắt giảm sản lượng giữa OPEC và một số nước xuất khẩu dầu khí ngoài OPEC. Tháng 12/2016, OPEC và 11 quốc gia khác bao gồm Nga đồng ý cắt giảm sản lượng khai thác khoảng 1,8 triệu thùng/ngày. Trong đó, OPEC đăng ký cắt giảm 1,2 triệu thùng/ngày và khoảng 600.000 thùng/ngày đối với các nước ngoài OPEC. Libya và Nigeria không nằm trong hiệp định trên.
Tuy nhiên, việc giá dầu tăng kích thích một số quốc gia xuất khẩu dầu khí khác (trong đó có Mỹ) tăng cường sản lượng khai thác, lấp đầy khoảng trống mà OPEC để lại sau khi nghiêm chỉnh tuân thủ cam kết.
Hiện thị trường dầu mỏ đang tập trung vào mùa du lịch Hè 2017 tại Mỹ, với hy vọng nhu cầu đi lại gia tăng cùng với thỏa thuận cắt giảm sản lượng 1,8 triệu thùng/ngày trong sáu tháng đầu năm 2017 của các nước trong và ngoài OPEC sẽ góp phần thúc đẩy giá dầu.
CNBC dẫn lời bà Helima Croft, trưởng bộ phận chiến lược hàng hóa cơ bản của RBC Capital Markets dự báo giá dầu sẽ tăng lên vùng 60-65 USD/thùng trong vòng vài tháng tới, tương đương mức tăng gần 20% từ ngưỡng hiện tại.
Tuần trước, giá dầu thế giới đã bật tăng mạnh sau khi Mỹ tấn công vào Syria. Dù có giảm trở lại sau đó, giá dầu thô ngọt nhẹ vẫn kết thúc phiên giao dịch ngày thứ Sáu ở mức 52,24 USD/thùng, cao nhất trong 1 tháng.
Cuộc tấn công của Mỹ vào Syria không dẫn tới nguy cơ gián đoạn nguồn cung lớn từ nước này, bởi phần lớn hoạt động khai thác dầu ở nước này đã bị ngưng trệ trong cuộc nội chiến 6 năm qua. Thay vào đó, giới đầu tư lo ngại về một cuộc trả đũa nhằm vào Mỹ của Nga và Iran - hai nước sản xuất dầu lớn và là đồng minh thân cận của Tổng thống Syria Bashar al-Assad.
Trong vòng 9 phiên giao dịch tính đến ngày thứ Sáu tuần trước, giá dầu đã có 8 phiên tăng. Trong tuần trước, giá dầu tăng 3%, trong đó chỉ một phần nhỏ là mức tăng ghi nhận sau khi Mỹ tấn công Syria.
Hiện vẫn đang có một số yếu tố có thể cản trở sự đi lên của giá dầu. Chuyên gia Phin Ziebell thuộc National Australia Bank nhấn mạnh việc số giàn khoan dầu ở Mỹ đã tăng 12 tuần liên tiếp. “Chắc chắn là giá dầu tăng hiện nay chỉ do những lo ngại về địa chính trị mà thôi”, ông Ziebell nói.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng biến động nhẹ trong bối cảnh thị trường đồn đoán rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ đẩy nhanh việc nâng lãi suất đã lấn át những quan ngại về các căng thẳng chính trị ở CHDCND Triều Tiên và Trung Đông.
Đóng cửa phiên giao dịch, giá vàng giao ngay nhích 0,04% lên 1.254,06 USD/ounce, trong khi giá vàng giao tháng Sáu giảm 0,3% xuống còn 1.253,90 USD/ounce.
Cùng với lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ, đồng USD giảm so với rổ các đồng tiền chủ chốt trước những dấu hiệu củng cố cam kết của Fed trong việc tiếp tục nâng lãi suất. Những đồn đoán về việc Mỹ sẽ đẩy nhanh tốc độ tăng lãi suất trong năm nay, qua đó làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng, là một lực cản đối với giá kim loại quý này.
Vào cuối phiên, giá vàng nhận được hỗ trợ từ bình luận của Chủ tịch Fed Janet Yellen rằng thể chế tài chính này sẽ có thể nâng dần lãi suất nếu nền kinh tế tiếp tục có tiến triển mạnh mẽ.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,2% xuống còn 17,93 USD/ounce, trong khi giá bạch kim cũng giảm 1,2% và được giao dịch ở mức 939,9 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại cơ bản, kẽm giảm xuống mức thấp nhất 3 tháng sau khi nỗi lo về nguồn cung dịu lại. Đồng cũng giảm trong bối cảnh nhu cầu tiếp tục yếu ở những nước tiêu thụ kim loại chủ chốt như Trung Quốc.
Kẽm giao sau 3 tháng giảm xuống 2.628,50 USD/tấn, thấp nhất kể từ 9/1. Hồi giữa tháng 2 có lúc giá kẽm lên tới 2.980,50 USD/tấn do lo ngại thiếu cung sau khi những mỏ lớn đóng cửa.
Trên thị trường nông sản, giá đường giảm, với đường thô giao tháng 5 trên sàn New York giảm 0,03 US cent hay 0,18% xuống 16,74 US cent/lb, trong khi đường trắng giao cùng kỳ hạn tại London giảm 1,40 USD hay 0,29% xuống 482,60 USD/tấn.
Thị trường đang theo dõi nhu cầu từ Trung Quốc và Ấn Độ, cũng như áp lực gia tăng khi Uỷ ban Châu Âu thực hiện các biện pháp đặc biệt nhằm làm chậm lại quá trình giảm lượng tồn trữ trong khu vực.
Trong khi đó, giá cà phê biến động trái chiều, với loại arabica giao tháng 5 trên sàn New York tăng 0,75 US cent hay 0,54% lên 1,4080 USD/lb, trong khi robusta giao cùng kỳ hạn trên sàn New York giảm 4 USD hay 0,18% xuống 2.166 USD/tấn.
Rabobank đã điều chỉnh dự báo về sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ 2016/17 lên 154 triệu bao loại 60 kg, tăng so với 151,7 triệu bao dự báo trước đây. Sản lượng về vụ 2017/18 được điều chỉnh giảm xuóng 153 triệu bao từ mức 155,4 triệu bao dự báo trước đó.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
53,08
|
+0,84
|
+0,65%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
55,59
|
+0,70
|
+0,80%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
38.140,00
|
+360,00
|
+0,95%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,26
|
+0,02
|
+0,56%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
176,36
|
+0,55
|
+0,31%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
165,06
|
+0,33
|
+0,20%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
497,50
|
+2,25
|
+0,45%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
49.740,00
|
+420,00
|
+0,85%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.255,90
|
+2,00
|
+0,16%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.455,00
|
-22,00
|
-0,49%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,94
|
+0,02
|
+0,11%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
63,70
|
-0,40
|
-0,62%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
941,65
|
+2,56
|
+0,27%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
790,14
|
+0,50
|
+0,06%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
260,85
|
+0,45
|
+0,17%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
5.747,00
|
-87,00
|
-1,49%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.926,50
|
-35,50
|
-1,81%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.618,00
|
-72,00
|
-2,68%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
20.275,00
|
+35,00
|
+0,17%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
367,00
|
0,00
|
0,00%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
429,25
|
+0,50
|
+0,12%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
216,50
|
0,00
|
0,00%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
10,26
|
0,00
|
-0,05%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
943,50
|
+1,75
|
+0,19%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
309,10
|
0,00
|
0,00%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
31,49
|
+0,14
|
+0,45%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
490,40
|
+0,70
|
+0,14%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
1.964,00
|
-43,00
|
-2,14%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
139,85
|
-0,20
|
-0,14%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
16,63
|
-0,14
|
-0,83%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
167,60
|
+0,20
|
+0,12%
|
Bông
|
US cent/lb
|
75,18
|
+0,03
|
+0,04%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
393,80
|
-5,80
|
-1,45%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
233,50
|
-5,90
|
-2,46%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,65
|
+0,02
|
+1,35%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet