Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng sau báo cáo cho thấy dự trữ dầu thô của Mỹ trong tuần trước giảm mạnh hơn dự kiến và hệ thống đường ống dẫn dầu Forties tại khu vực Biển Bắc thuộc Anh tiếp tục ngừng hoạt động.
Đóng cửa phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 2/2018 trên sàn New York tăng 53 US cent lên 58,09 USD/thùng. Trong khi đó, tại thị trường London, giá dầu Brent Biển Bắc giao tháng 2/2018 tăng 76 US cent, lên 64,56 USD/thùng.
Báo cáo của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), dự trữ dầu thô của nền kinh tế lớn nhất thế giới trong tuần kết thúc vào ngày 15/12 đã giảm 6,5 triệu thùng, vượt mức giảm dự kiến của giới phân tích. Trong khi đó, dự trữ xăng của nước này cùng kỳ lại tăng 1,2 triệu thùng, thấp hơn mức tăng dự báo. Hiện lượng dự trữ dầu thô của Mỹ, không tính kho dự trữ dầu chiến lược, ở mức 436,5 triệu thùng, mức thấp nhất kể từ tháng 10/2015. Sự hao hụt dần số dầu dự trữ là do Mỹ đang đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu và nỗ lực kiềm chế nguồn cung của một số nhà sản xuất dầu mỏ chủ chốt.
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và 10 nhà sản xuất dầu mỏ khác không thuộc tổ chức này hồi tháng trước đã nhất trí gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng tới hết năm 2018. Bộ trưởng Dầu mỏ Kuwait, Bakhit al-Rashidi cho biết, mức độ tuân thủ thỏa thuận trên hiện đạt 122%, mức cao nhất kể từ khi thỏa thuận này đi vào thực thi.
Trong khi đó tại Nga, phó chủ tịch thứ nhất của công ty Rosneft, nhà sản xuất dầu mỏ lớn nhất Nga, ông Pavel Fedorov, cho biết một thỏa thuận cắt giảm sản lượng dầu mỏ toàn cầu có thể được kéo dài ngoài năm 2018, đưa ra trong chiến lược của công ty này đến năm 2022.
Ông Fedorov cho biết “về tổng thể ... thỏa thuận của OPEC rõ ràng sẽ ảnh hưởng tới mục tiêu ngắn hạn của chúng tôi, tất cả những điều đó tôi không loại trừ thỏa thuận có thể được gia hạn”
Chiến lược mới đã thông báo tại khu nghỉ dưỡng Biển Bắc của thành phố Shochi, không xa nơi Rosneft bắt đầu khoan giếng thăm dò ngoài thơi đầu tiên của họ, dự kiến rằng Rosneft sẽ tập trung vào việc tạo ra giá trị từ các tài sản hiện nay của họ.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao nhất 2 tuần nhờ số liệu mới nhất cho thấy doanh số bán nhà tại Mỹ vẫn khá vững. Song đà tăng của giá vàng cũng bị hạn chế do lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ chạm mức cao nhất trong vòng chín tháng sau khi Quốc hội Mỹ thông qua dự luật cải cách thuế lớn nhất trong hơn 30 năm qua.
Giá vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.265,26 USD/ounce, sau khi đã có lúc chạm mức cao nhất kể từ ngày 6/12 là 1.267,81 USD/ounce, vàng giao tháng 2/2018 cũng tăng 0,43% (5,4 USD) lên 1.269,6 USD/ounce.
Chỉ số USD – thước đo "sức khỏe" của đồng bạc xanh so với các đồng tiền chủ chốt khác – phiên này giảm 0,2% xuống mức thấp nhất trong hai tuần là 93,289 .
Trong khi đó, báo cáo mới đây của ngân hàng Goldman Sachs dự báo giá vàng sẽ giảm sâu hơn và chạm mức 1.200 USD/ounce vào giữa năm 2018.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 3/2017 tăng 0,76% lên 16,275 USD/ounce, trong khi giá bạch kim giao tháng 1/2017 tiến thêm 0,81% lên 921,5 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô tăng phiên thứ 3 liên tiếp lên mức cao nhất 2 tuần, tăng 0,16 US cent tương đương 1,1% lên 14,57 US cent/lb. Hợp đồng này đang tiến tới mức giảm 25%, mức giảm mạnh nhất kể từ 2011.
Các nhà máy đường Ấn Độ kế hoạch tăng gấp đôi lượng cung ethanol cho các nhà bán lẻ để pha trộn với xăng trong năm 2017/18.
Đường trắng giao tháng 3 tăng 4,10 USD tương đương 1,1% lên 381,30 USD/tấn.
Cà phê arabica cũng tăng 1,4 US cent tương đương 1,2% lên 1,2315 USD/lb.
Cà phê robusta vững ở 1.713 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/-(%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
58,09
|
+0,53
|
+0,95%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
64,56
|
+0,76
|
+1,05%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
42.790,00
|
+400,00
|
+0,94%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,66
|
+0,02
|
+0,83%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
173,67
|
+0,14
|
+0,08%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
194,33
|
-0,09
|
-0,05%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
574,25
|
-1,25
|
-0,22%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
57.850,00
|
+420,00
|
+0,73%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.271,30
|
+1,70
|
+0,13%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.613,00
|
+31,00
|
+0,68%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,29
|
+0,01
|
+0,06%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
59,60
|
+0,40
|
+0,68%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
920,75
|
+1,32
|
+0,14%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.029,70
|
+0,80
|
+0,08%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
319,65
|
+0,05
|
+0,02%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
7.044,00
|
+102,00
|
+1,47%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.122,00
|
+23,00
|
+1,10%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
3.218,00
|
+17,00
|
+0,53%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
19.475,00
|
+120,00
|
+0,62%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
349,50
|
+0,25
|
+0,07%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
424,25
|
+0,75
|
+0,18%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
244,00
|
-1,00
|
-0,41%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,13
|
+0,12
|
+0,96%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
964,50
|
0,00
|
0,00%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
320,00
|
+0,30
|
+0,09%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
33,10
|
-0,03
|
-0,09%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
500,40
|
-1,30
|
-0,26%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
1.931,00
|
+19,00
|
+0,99%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
123,15
|
+1,40
|
+1,15%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
14,57
|
+0,16
|
+1,11%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
138,35
|
-1,70
|
-1,21%
|
Bông
|
US cent/lb
|
75,71
|
+0,68
|
+0,91%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
425,90
|
-0,20
|
-0,05%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
207,10
|
-0,80
|
-0,38%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,31
|
+0,01
|
+1,08%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet