Trên thị trường năng lượng, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) trên sàn New York tăng 0,21 USD lên 42,74 USD/thùng; dầu Brent Biển Bắc trên sàn London cũng tăng 0,4 USD và được giao dịch ở mức 45,22 USD/thùng.
Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA) cho biết giá dầu thế giới giảm liên tiếp trong ba phiên gần đây, trong lúc sản lượng khai thác dầu thô của Mỹ tăng lên mức 9,35 triệu thùng mỗi ngày, mức khai thác gần như cao nhất trong hai năm qua.
Trong tuần này thị trường dầu mỏ thế giới có xu hướng đi xuống bởi nỗi lo dai dẳng về tình trạng dư dôi nguồn cung dầu thô toàn cầu sẽ hạn chế hiệu quả của thỏa thuận cắt giảm sản lượng khai thác giữa các thành viên của Tổ chức Các nước Xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) với các nước ngoài OPEC, trong đó có Nga.
Sau khi đạt mức đỉnh của năm nay vào cuối tháng Hai vừa qua, giá dầu thô thế giới đã giảm khoảng 20%, xóa sạch toàn bộ mức tăng đạt được từ cuối năm ngoái nhờ thỏa thuận cắt giảm sản lượng gần 1,8 triệu thùng/ngày giữa các thành viên trong và ngoài OPEC.
Theo hãng tin Bloomberg, mối lo lớn nhất trên thị trường dầu lửa lúc này là hoạt động mạnh mẽ của các nhà khai thác dầu đá phiến của Mỹ có thể sẽ nhấn chìm những nỗ lực nhằm cắt giảm lượng dầu dư thừa trên toàn cầu của Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu lửa (OPEC). Ngoài ra, sự phục hồi sản lượng dầu của Syria cũng là một nguồn sức ép không nhỏ đối với giá dầu.
Việc giá dầu thế giới liên tục lập đáy trong những phiên giao dịch gần đây đang tạo ra cơ hội tuyệt vời cho các nhà đầu tư bán khống - những người kiếm lời bằng cách vay dầu để bán ra trước, rồi đợi cho giá giảm mới mua vào để trả lại và hưởng phần giá chênh lệch.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng hồi phục từ mức thấp nhất 5 tuần nhờ hoạt động mua vào của giới đầu tư, sau khi giá kim loại rơi xuống mức thấp nhất trong 5 tuần vào phiên trước.
Trên sàn New York, giá vàng giao tháng 8 tăng 0,3% lên 1.249,40 USD/ounce; giá vàng giao ngay cũng tăng 0,3% lên 1.249,17 USD/ounce. Trong phiên trước đó, giá kim loại quý này đã rơi xuống 1.240,75 USD/ounce, mức thấp nhất trong 5 tuần.
Nhà phân tích Jeffrey Halley, thuộc OANDA, cho rằng tình trạng mất kiểm soát của giá dầu trên thị trường kỳ hạn có thể là nguyên nhân thúc đẩy các nhà giao dịch tìm đến vàng như một nơi trú ẩn an toàn.
Tuy nhiên, các chuyên gia cảnh báo số liệu tích cực về thị trường lao động Mỹ có thể hối thúc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ tiếp tục nâng lãi suất. Động thái này sẽ là “cơn gió ngược” đối với giá vàng thế giới, khi kim loại quý này luôn tỏ ra khá nhạy cảm với các đợt thay đổi lãi suất của Mỹ.
Quỹ giao dịch vàng lớn nhất thế giới, SPDR Gold Trust, cho biết lượng vàng do quỹ này nắm giữ đã tăng 0,04% lên 853,98 tấn trong phiên 21/6.
Trên thị trường nông sản, giá tiếp tục giảm.
Đậu tương vừa chạm mức giá chấp nhất trong vòng 17 tháng trong khi ngô cũng thấp nhất 2 tháng khi triển vọng thời tiết ở Mỹ khả quan.
Cà phê arabica tiếp tục giảm, với hợp đồng giao tháng 9 giảm 5,55 US cent tương đương 4,6% xuống 1,165 USD/lb, trong phiên có lúc giá chỉ 1,55 USD, thấp nhất kể từ tháng 3/2016. Robusta giao cùng kỳ hạn cũng giảm mạnh 42 USD tương đương 2% xuống 2.030 USD/tấn.
Triển vọng thời tiết khô dần ở Brazil tạo thuận lợi cho thu hoạch cà phê nhưng lại gây áp lực giảm giá.
Đối với mặt hàng đường, giá cũng tiêp tục giảm do áp lực bán mạnh. Đường thô giao tháng 10 giá giảm 0,2 US cent tương đương 1,5% xuống 13,-6 US cent/lb, trong khi đường trắng giao tháng 8 giá giảm 4,7 USD xuống 392,50 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
42,74
|
+0,21
|
+0,48%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
45,22
|
+0,4
|
+0,64%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
31.580,00
|
+430,00
|
+1,38%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,90
|
+0,01
|
+0,21%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
143,58
|
+0,13
|
+0,09%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
137,44
|
+0,28
|
+0,20%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
409,25
|
-3,00
|
-0,73%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
45.380,00
|
+340,00
|
+0,75%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.252,40
|
+3,00
|
+0,24%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.469,00
|
+3,00
|
+0,07%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,63
|
+0,06
|
+0,34%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
59,60
|
+0,20
|
+0,34%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
927,61
|
+1,83
|
+0,20%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
887,67
|
-0,60
|
-0,07%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
260,95
|
-0,05
|
-0,02%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
5.742,00
|
0,00
|
0,00%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.870,00
|
+3,00
|
+0,16%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.700,00
|
+60,00
|
+2,27%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
19.250,00
|
-250,00
|
-1,28%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
370,50
|
-0,25
|
-0,07%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
474,75
|
-0,50
|
-0,11%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
257,75
|
+0,50
|
+0,19%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,41
|
+0,03
|
+0,22%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
914,00
|
+0,75
|
+0,08%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
297,90
|
+0,50
|
+0,17%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
32,07
|
+0,02
|
+0,06%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
472,90
|
-0,50
|
-0,11%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
1.823,00
|
-30,00
|
-1,62%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
116,50
|
-5,55
|
-4,55%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
13,06
|
-0,20
|
-1,51%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
127,95
|
-1,90
|
-1,46%
|
Bông
|
US cent/lb
|
66,74
|
-1,43
|
-2,10%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
363,00
|
+2,90
|
+0,81%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
188,70
|
-0,80
|
-0,42%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,50
|
-0,02
|
-1,51%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet