Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng mạnh, dầu thô của Mỹ có lúc chạm mức cao nhất 3,5 năm.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu Brent Biển Bắc giao tháng 8/2018 tăng 0,23 USD lên 77,85 USD/ thùng. Trong khi tại New York, giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao cùng kỳ hạn tăng 0,69 USD (gần 1%) lên 73,45 USD/thùng sau khi có lúc chạm mức cao nhất kể từ phiên 26/11/2014.
Hiện lo ngại lớn nhất của thị trường là nguy cơ nguồn cung sụt giảm do các biện pháp trừng phạt của Mỹ có thể khiến xuất khẩu dầu của Iran giảm mạnh. Sự gián đoạn nguồn cung dầu từ Canada, Libya và Venezuela cũng là một yếu tố hỗ trợ giá dầu trong phiên này.
Mỹ tuần này đã yêu cầu các nước dừng nhập khẩu dầu của Iran bắt đầu từ tháng 11/2018, động thái mà chính quyền của Tổng thống Donald Trump hy vọng sẽ cắt nguồn tiền chuyển về Tehran. Ngày 28/6, các quan chức Mỹ cho biết họ sẽ làm việc với riêng từng nước về vấn đề liên quan. Trung Quốc, nhà nhập khẩu dầu lớn nhất của Iran, hiện chưa cam kết với Mỹ về việc này.
Mark Watkins, nhà chiến lược đầu tư khu vực tại Bank Weath Management (Mỹ), nhận định các biện pháp trừng phạt của Mỹ đang nhằm cố để cô lập Iran thêm, và điều đó có khả năng dẫn tới việc sẽ làm giảm bớt lượng dầu đưa ra thị trường toàn cầu.
Bộ trưởng Năng lượng Kuwait, ông Bakhit al-Rashidi cho biết, quốc gia này sẽ tăng sản lượng dầu thêm 85.000 thùng/ngày bắt đầu từ 1/7, một phần của thỏa thuận giữa OPEC và các nhà sản xuất không thuộc OPEC để tăng sản lượng thêm 1 triệu thùng/ngày.
Các chuyên gia cho rằng tình trạng nguồn cung dầu thô từ Iran bị “chặn” liên quan tới các lệnh trừng phạt của Mỹ có thể đẩy giá dầu lên tới mức 90 USD/thùng.
Kênh truyền hình CNBC dẫn phát biểu của chuyên gia Hootan Yazhari thuộc Ngân hàng America Merrill Lynch cho biết: “Chúng tôi cho rằng giá dầu sẽ lên tới 90 USD/thùng vào cuối quý 2 năm sau”. Theo ông Yazhari, “Tổng thống Mỹ Donald Trump đang “tích cực” tìm cách cô lập Iran và gây sức ép đối với các đồng minh để họ không mua dầu từ Tehran.
Trước đó, truyền thông khu vực đưa tin, chính quyền Washington đã lên tiếng đe dọa trừng phạt các nước nhập khẩu dầu mỏ của Iran. Mỹ hy vọng tất cả các nước sẽ ngừng nhập khẩu dầu mỏ của Iran từ ngày 4/11 tới, nếu không sẽ phải đối mặt với các lệnh trừng phạt của Washington. Động thái này cho thấy Mỹ đang theo đuổi chính sách cứng rắn hơn nhằm vào Iran khi tìm mọi cách cách cô lập kinh tế, chính trị đối với quốc gia Trung Đông này.
Tuy nhiên, sức ép từ Washington dường như không có ý nghĩa đối với những đối tác nhập khẩu dầu lớn của Iran như Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ. Bộ Dầu mỏ Ấn Độ ngày 28/6 đã tuyên bố rằng New Delhi sẽ không công nhận những lệnh trừng phạt đơn phương nhằm vào Tehran đồng thời sẽ bảo lưu quyền của mình và không quan tâm tới yêu sách của Mỹ.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất hơn sáu tháng trong ngày hôm qua, do áp lực tăng từ các tranh chấp thương mại và kỳ vọng lãi suất cao của Mỹ, bất chấp việc đồng bạc xanh giảm giá.
Các cuộc đối đầu thương mại do Mỹ điều khiển đã làm tổn thương thị trường chứng khoán thế giới và lãi suất nợ của Mỹ và Đức, trong khi Phố Wall cảm thấy gánh nặng thêm từ sự sụt giảm cổ phiếu ngành y tế.
Căng thẳng thương mại đẩy USD lên mức cao nhất một năm so với một giỏ tiền tệ, sau đó giảm trở lại do lạm phát gia tăng ở một số vùng của Đức khiến các nhà giao dịch mua đồng euro.
Giá vàng giao ngay giảm 0,3% xuống mức 1.248,04 USD vào lúc 1733 GMT. Trước đó, vàng đã chạm mức 1,246,60 USD, mức thấp nhất kể từ giữa tháng 12.
Giá vàng giao tháng 8 của Mỹ đã giảm 5,11 USD, tương đương 0,4%, xuống mức 1.251 USD/ounce.
Các nhà đầu tư đang theo dõi cuộc họp đầy tiềm năng của các nhà lãnh đạo EU thảo luận về các vấn đề như di cư, Brexit và thương mại.
Trong khi đó, giá bạc giảm 0,4 % còn 15,98 USD/ounce, trước khi đã chạm mức thấp nhất kể từ giữa tháng 12 là 15,88 USD. Giá palađi giảm 1,4% xuống 933,97 USD/ounce. Giá bạch kim giảm 0,7% xuống 850,40 USD/ounce, chạm mức thấp nhất kể từ cuối tháng 1/2016 là 840,50 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá thép cây kỳ hạn tại Thượng Hải tăng lên khỏi mức thấp gần một tháng, sau khi dự trữ thép xây dựng giảm bất chấp nhu cầu tiêu thụ yếu theo mùa. Dự trữ thép thanh xây dựng hàng tuần tại các thương nhân Trung Quốc đã giảm 2,4% sau khi tăng trong tuần trước.
Giá thép cây giao tháng 10 tại sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải đóng cửa tăng 1,5% lên 3.744 NDT (566 USD)/tấn. Nhu cầu tiêu thụ thép dự kiến sẽ giảm hơn trong tháng 7 khi các công trình xây dựng thường dừng lại do mưa bão.
Giá quặng sắt và than cốc nguyên liệu sản xuất thép tăng cùng với thép, trong khi than cốc vẫn ổn định. Giá quặng sắt kỳ hạn giao tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa Dalian tăng 0,9% lên 467,50 NDT/tấn.
Nhập khẩu quặng sắt của Trung Quốc tăng mạnh trong tháng 6/2018, nhưng có nhiều rủi ro sụt giảm trong nửa cuối năm 2018. Nhập khẩu quặng sắt bằng đường biển trong tháng 6 đạt 88,9 triệu tấn.
Một số thông tin trên thị trưởng thép thế giới trong ngày
- Pakistan đặt thuế chống bán phá giá 24,04% đối với các sản phẩm thép Trung Quốc để bảo vệ ngành công nghiệp địa phương. Thuế mới bắt đầu có hiệu lực từ 22/6, thời hạn 5 năm.
- EU có thể sẽ hạn chế nhập khẩu thép trên toàn thế giới kể từ giữa tháng 7 nhằm ngăn chặn hàng nhập khẩu tràn vào gây ảnh hưởng tới ngành thép nội địa.
- Yieh United Steel Corp. (Yusco), nhà máy thép không gỉ tích hợp lớn nhất ở Đông Nam Á, đã thông báo tăng giá thép không gỉ trong tháng 7 do giá nickel tăng. Theo đó, giá thép không gỉ cán nóng 304 tăng 1.000 TWD/tấn, thép không gỉ cán nguội 304 tăng thêm 1.000 TWD/tấn. Giá thép không gỉ 430 tăng 500 TWD/tấn, và giá thép không gỉ 316 tăng thêm 1.500 TWD/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá cao su kỳ hạn tại Tokyo tăng trong phiên thứ ba liên tiếp khi các nhà đầu tư tiếp tục giao dịch mua bù thiếu. Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo giao tháng 12 tăng 1,4 Yên, tương đương 0,8%, đạt trên 175,2 Yen (1,59 USD)/kg.
Giá cao su kỳ hạn trên sàn giao dịch Thượng Hải giao tháng 9 giảm 25 NDT xuống còn 10.455 NDT (1.578 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tại sàn SICOM của Singapore giao tháng 7 chốt phiên ở mức 138,5 cent Mỹ/kg, giảm 0,5 cent.
Theo số liệu mới nhất của Hiệp hội các nước sản xuất cao su thiên nhiên, nhu cầu tiêu thụ cao su thiên nhiên thế giới đã vượt nguồn cung trong 5 tháng đầu năm 2018, nhưng tình hình này không tác động nhiều tới giá.Cụ thể, tiêu thụ cao su thiên nhiên toàn cầu tăng 6,2% trong 5 tháng đầu năm lên 5,82 triệu tấn so với cùng kỳ năm 2017 trong khi nguồn cung đạt 5,25 triệu tấn, tăng 7,7%. Việc thiếu hụt 570.000 tấn này đã giúp hấp thụ một phần nguồn cung dư thừa sẵn có trên thị trường.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
73,45
|
+0,69
|
+0,81%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
77,85
|
+0,23
|
+0,33%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
50.280,00
|
+70,00
|
+0,14%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,94
|
+0,00
|
+0,10%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
213,03
|
-0,26
|
-0,12%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
217,52
|
-0,30
|
-0,14%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
664,50
|
-1,75
|
-0,26%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
68.220,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.248,70
|
-2,30
|
-0,18%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.427,00
|
-6,00
|
-0,14%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,02
|
-0,02
|
-0,13%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
56,80
|
-0,40
|
-0,70%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
846,50
|
-3,03
|
-0,36%
|
Palladium giao ngay
|
USD/ounce
|
945,55
|
+0,21
|
+0,02%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
296,65
|
-0,50
|
-0,17%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.623,00
|
-69,50
|
-1,04%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.155,00
|
-21,00
|
-0,97%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.897,00
|
+21,00
|
+0,73%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
19.600,00
|
-255,00
|
-1,28%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
355,00
|
+0,75
|
+0,21%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
484,50
|
+1,00
|
+0,21%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
237,00
|
-0,50
|
-0,21%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,34
|
+0,12
|
+1,07%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
884,00
|
+0,50
|
+0,06%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
330,60
|
-0,10
|
-0,03%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
29,66
|
-0,02
|
-0,07%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
510,30
|
-0,10
|
-0,02%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.451,00
|
+71,00
|
+2,98%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
115,75
|
-1,70
|
-1,45%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,25
|
+0,20
|
+1,66%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
160,45
|
+0,10
|
+0,06%
|
Bông
|
US cent/lb
|
83,78
|
+0,23
|
+0,28%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
540,80
|
+4,30
|
+0,80%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
174,30
|
-0,90
|
-0,51%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
174,30
|
-0,90
|
-0,51%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg