Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm sau khi Nga phát tín hiệu sản lượng sẽ duy trì ở mức cao. Kết thúc phiên, dầu Brent Biển Bắc giảm 28 US cent xuống 77,34 USD/thùng, trong khi giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 55 xu Mỹ và khép phiên ở mức 67,04 USD/thùng.
Tính từ đầu tháng tới nay, dầu Brent và dầu WTI giảm lần lượt khoảng 6,6% và 8,5%, mạnh nhất kể từ tháng 7/2016. Dù các lệnh trừng phạt của Mỹ đối với xuất khẩu dầu của Iran dự kiến sẽ có hiệu lực vào ngày 4/11/2018, giá dầu vẫn giảm khoảng 10 USD/thùng từ các mức cao nhất 4 năm hồi đầu tháng 10/2018.
Bộ trưởng Năng lượng Nga Alexander Novak mới đây cho biết, Nga không có lý do gì phải đóng băng hay cắt giảm sản lượng dầu, khi các thị trường dầu toàn cầu có nguy cơ phải đối mặt với trình trạng thiếu hụt.
Trong khi đó, thị trường chứng khoán toàn cầu mất điẻm do lo ngại về lợi nhuận doanh nghiệp và tác động của căng thẳng thương mại đối với tăng trưởng kinh tế, cũng như đồng USD mạnh lên đều tác động tới giá dầu. Chỉ số đồng USD đo sức mạnh của “đồng bạc xanh” so với rổ các đồng tiền chủ chốt đã tăng 0,15% lên 96,57 sau số liệu chi tiêu tiêu dùng khả quan của Mỹ. Đồng USD mạnh lên sẽ khiến các hàng hóa được định giá bằng đồng tiền này trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua nắm giữ các đồng tiền khác.
Giới đầu cơ bắt đầu rút khỏi đặt cược dầu thô tăng giá. Theo số liệu của sàn ICE, giới đầu cơ giảm vị thế mua đối với dầu Brent xuống thấp nhất hai tháng ở 360.785 hợp đồng trong tuần tính đến ngày 23/10/2018. Tương tự, đối với dầu WTI, giới đầu cơ quỹ giảm vị thế mua xuống 216.733 hợp đồng, mức thấp nhất kể từ tháng 9/2017.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do USD mạnh lên. Kết thúc phiên, vàng giao ngay giảm 0,6% xuống 1.225,71 USD/ounce, trong khi vàng giao tháng 12/2018 giảm 8,2 USD (0,66%) xuống 1.227,6 USD/ounce.
Tuần trước, giá vàng chứng kiến một tuần khởi sắc, nhờ hoạt động mua vào tài sản an toàn của giới đầu tư trước sự sụt giảm trên các thị trường chứng khoán. Theo ước tính, giá kim loại quý này ghi nhận tuần tăng thứ tư liên tiếp, chuỗi tăng dài nhất kể từ tháng 1/2018.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 12/2018 giảm 25,8 US cent(1,76%) xuống 14,442 USD/ounce; còn giá bạch kim giao tháng 1/2019 tăng 2,5 USD (0,3%) lên 836,9 USD/ounce.
Các ngân hàng và nhà môi giới đã giảm dự báo giá vàng trung bình trong năm nay và năm 2019 sau khi kim loại này giảm xuống thấp nhất 19 tháng trong tháng 8/2018, song vẫn kỳ vọng giá sẽ hồi phục nhẹ.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng duy trì vững, do nguồn cung thiếu hụt được bù đắp bởi lo ngại về tăng trưởng kinh tế và nhu cầu tiêu thụ, ảnh hưởng của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc.
Giá đồng kỳ hạn giao sau trên sàn London không thay đổi ở mức 6.160 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt mức cao 6.240 USD/tấn, do dự trữ đồng tại LME giảm hơn 60% kể từ mức cao đỉnh điểm năm 2018 (gần 390.000 tấn) xuống 143.125 tấn. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng lợi nhuận của các công ty công nghiệp Trung Quốc trong tháng 9/2018 chậm lại tháng thứ 5 liên tiếp, do doanh số bán nguyên vật liệu và hàng hóa giảm, điều này cho thấy nhu cầu nội địa suy giảm. Đồng thời, các chỉ số chứng khoán chủ chốt của Trung Quốc giảm mạnh trong phiên giao dịch vừa qua, do báo cáo thu nhập của các công ty công nghiệp và tiêu dùng giảm, gia tăng lo ngại về sự suy giảm tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng trong lĩnh vực công nghiệp của Trung Quốc có thể giảm hơn nữa trong tháng 10/2018, do nhu cầu nội địa chậm lại và các nhà xuất khẩu đã nhận thấy tác động lớn hơn từ cuộc chiến thương mại với Mỹ.
Giá quặng sắt đạt mức cao nhất gần 8 tháng, được hỗ trợ bởi nhu cầu đối với nguyên liệu sản xuất thép tại nước tiêu thụ hàng đầu thế giới – Trung Quốc - tăng, do dự trữ tại các cảng của nước này trong tuần trước giảm. Công ty tư vấn SteelHome cho biết, dự trữ quặng sắt tại các cảng lớn của Trung Quốc trong tuần tính đến ngày 26/10/2018 giảm 150.000 tấn so với tuần trước đó xuống 143,85 triệu tấn. Như vậy, dự trữ quặng sắt tại các cảng của Trung Quốc đã giảm 11% từ mức cao kỷ lục 161,98 triệu tấn trong tháng 6/2018.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2019 trên sàn Đại Liên tăng 0,7% lên 538 CNY/tấn, trong phiên có lúc đạt 546,5 CNY (78,57 USD)/tấn, cao nhất kể từ ngày 5/3/2018.
Trên thị trường nông sản, giá đường quay đầu giảm do hoạt động mua đầu cơ yếu, sau khi tăng vào phiên sáng khi cuộc bầu cử tổng thống đẩy đồng real Brazil tăng mạnh, trong khi giá ca cao giảm hơn 3%.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2019 giảm 0,34 US cent tương đương 2,5% xuống 13,5 US cent/lb, trong đầu phiên giao dịch tăng lên 14,05 US cent/lb được thúc đẩy bởi đồng real tăng cao nhất 5,5 tháng, sau khi ứng viên cánh hữu Jair Bolsonaro giành ưu thế trong cuộc bầu cử Tổng thống Brazil vào cuối tuần qua. Tuy nhiên, giá đường đã giảm trở lại do đồng real Brazil giảm xuống và hoạt động mua đầu cơ suy giảm. Giá đường trắng giao cùng kỳ hạn giảm 8 USD tương đương 2,2% xuống 364,7 USD/tấn.
Đồng thời, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2018 cũng giảm 5,4 US cent tương đương 4,5% xuống 1,1425 USD/lb, trong đầu phiên giao dịch giảm khoảng 4,8% xuống 1,1395 USD/lb, thấp nhất kể từ ngày 12/10/2018. Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2019 giảm 43 USD tương đương 2,5% xuống 1.687 USD/tấn, đầu phiên giao dịch giảm xuống 1.675 USD/tấn, thấp nhất kể từ ngày 11/10/2018.
Tương tự, giá ca cao kỳ hạn tháng 12/2018 trên sàn London giảm 31 GBP, tương đương 1,8%, xuống 1.673 GBP/tấn, trong phiên có lúc đạt 1.718 GBP/tấn, cao nhất kể từ ngày 20/7/2018. Giá ca cao giao cùng kỳ hạn trên sàn New York giảm 56 USD tương đương 2,5% xuống 2.195 USD/tấn, sau khi giảm hơn 3% vào đầu phiên còn 2.180 USD/tấn.
Giá đậu tương giảm xuống mức thấp nhất 1 tháng, do sản lượng vụ thu hoạch Mỹ đạt mức cao kỷ lục và triển vọng xuất khẩu suy giảm bởi chiến tranh thương mại giữa Mỹ và nước nhập khẩu hàng đầu – Trung Quốc.
Giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2018 trên sàn Chicago giảm 6 US cent xuống 8,39 USD/bushel, trong phiên có lúc chạm 8,37-1/4 USD/bushel, thấp nhất kể từ ngày 25/9/2018.
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo giảm xuống mức thấp nhất 25 tháng, do lo ngại về nền kinh tế tại nước nhập khẩu hàng đầu thế giới – Trung Quốc – chậm lại đã thúc đẩy hoạt động bán ra tại Thượng Hải, trong khi đồng JPY tăng mạnh so với USD cũng gây áp lực giá.
Số liệu cuối tuần qua của Trung Quốc cho thấy, nền kinh tế nước này suy yếu khi tăng trưởng lợi nhuận của các công ty công nghiệp trong tháng 9/2018 chậm lại tháng thứ 5 liên tiếp, do doanh số bán nguyên liệu và hàng hóa suy giảm. Satoru Yoshida, nhà phân tích hàng hóa thuộc Rakuten Securities cho biết: "Dường như mối lo ngại về tác động tiêu cực của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung tới nền kinh tế Trung Quốc đang dần trở thành hiện thực".
Giá cao su kỳ hạn tháng 4/2019 trên sàn TOCOM giảm 4,3 JPY tương đương 2,6% xuống 162 JPY (1,45 USD)/kg. Trong đầu phiên giao dịch có lúc chạm 161,5 JPY/kg, thấp nhất kể từ ngày 20/9/2016. Giá cao su TSR20 giao cùng kỳ hạn trên sàn TOCOM giảm 3,2% xuống 145,2 JPY/kg.
Giá cao su kỳ hạn tháng 1/2019 trên sàn Thượng Hải giảm 480 CNY xuống 11.340 CNY (1.631 USD)/tấn, trong phiên có lúc chạm 11.280 CNY/tấn, thấp nhất kể từ ngày 3/8/2018.
Giá hàng hóa thế giới
Mặt hàng
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
67,04
|
-0,55
|
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
77,34
|
-0,28
|
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
52.260,00
|
+120,00
|
+0,23%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,19
|
0,00
|
0,00%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
181,37
|
-1,12
|
-0,61%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
227,76
|
-0,67
|
-0,29%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
698,50
|
-4,50
|
-0,64%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
67.610,00
|
+70,00
|
+0,10%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.229,00
|
+1,40
|
+0,11%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.427,00
|
+4,00
|
+0,09%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
14,49
|
+0,05
|
+0,33%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
52,20
|
-0,80
|
-1,51%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
833,21
|
+0,98
|
+0,12%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.095,00
|
+4,18
|
+0,38%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
272,15
|
-1,90
|
-0,69%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
6.160,00
|
0,00
|
0,00%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.984,00
|
-14,00
|
-0,70%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.622,00
|
-29,00
|
-1,09%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
19.125,00
|
-175,00
|
-0,91%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
365,75
|
-1,00
|
-0,27%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
504,00
|
-3,25
|
-0,64%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
288,00
|
+1,50
|
+0,52%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
10,63
|
0,00
|
0,00%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
850,50
|
-1,75
|
-0,21%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
307,80
|
-0,40
|
-0,13%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
27,88
|
-0,01
|
-0,04%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
489,50
|
-0,70
|
-0,14%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.195,00
|
-56,00
|
-2,49%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
114,25
|
-5,40
|
-4,51%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
13,50
|
-0,34
|
-2,46%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
138,75
|
+0,70
|
+0,51%
|
Bông
|
US cent/lb
|
77,14
|
-0,03
|
-0,04%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
303,30
|
-3,50
|
-1,14%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
161,00
|
-1,00
|
-0,62%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,29
|
-0,01
|
-0,62%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg