Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng bất chấp thông tin Saudi Arabia và các nhà sản xuất khác trong OPEC đã đồng ý với đề nghị tăng sản lượng do Tổng thống Mỹ Donald Trump đưa ra nhằm kiềm chế đà tăng giá của mặt hàng này.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent kỳ hạn giảm 11 US cent hay 0,2% xuống 72,04 USD/thùng, trong khi dầu Tây Texas WTI tăng 20 US cent hay 0,3% lên 63,50 USD/thùng. Cả hai loại dầu này đã giảm khoảng 3% trong ngày 26/4 sau khi Tổng thống Trump cho biết ông đã gọi điện yêu cầu OPEC hạ giá dầu. Các nhà phân tích và đầu tư đánh giá thấp phát biểu này vì các chi tiết không rõ ràng. Phát biểu của Trump ban đầu đã gây ra đợt bán tháo.
Giá dầu đã liên tiếp tăng trong tháng 4 này sau khi ông Trump thắt chặt các lệnh trừng phạt đối với Iran bằng cách chấm dứt tất cả miễn trừ trước đó đã cấp cho một số quốc gia mua dầu chủ chốt từ quốc gia này. Lệnh trừng phạt của Mỹ đối với ngành dầu mỏ Iran sẽ gây bất ổn trên thị trường dầu mỏ.
Các lệnh trừng phạt của Mỹ với Venezuela càng khiến cho nguồn cung dầu trên toàn cầu thêm chắt chặt giữa bối cảnh cuộc chiến tại Libya đang đe dọa hạn chế nguồn cung của quốc gia này. Sản lượng của Libya liên tục bị gián đoạn bởi xung đột phe phái và phong tỏa kể từ cuộc nổi dậy lật đổ nhà độc tài Muammar Gaddafi năm 2011.
Các thương nhân cho biết thị trường đang chuyển hướng tập trung sang việc cắt giảm sản lượng tự nguyện của OPEC, trong đó nước lãnh đạo thực tế là Saudi Arabia. Ngân hàng ING cho rằng Saudi Arabia sẽ nâng sản lượng ngay trong tháng 5/2019 mà vẫn tuân thủ thỏa thuận OPEC+.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giao ngay giảm 0,5% xuống 1.279,32 USD/ounce, trong khi vàng kỳ hạn của Mỹ đóng cửa giảm 0,6% xuống 1.281,5 USD/ounce.
David Meger, giám đốc giao dịch kim loại tại High Ridge Futures cho biết “các thị trường chứng khoán, ít nhất tại Mỹ, đang ở mức cao gần đây và chúng tôi không thấy nhu cầu lớn đối với các tài sản “an toàn” như vàng”. Lượng vàng nắm giữ của quỹ tín thác vàng lớn nhất thế giới, SPDR Gold Trust GLD, đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ ngày 19/10/2018 tại 746,69 tấn trong ngày 26/4/2019. Lượng nắm giữ của quỹ này đã giảm hơn 3% kể từ đầu tháng.
Fed sẽ bắt đầu cuộc họp chính sách kéo dài 2 ngày bắt đầu từ ngày hôm nay. Ngân hàng trung ương này trong tháng trước đã từ bỏ bất kỳ đợt tăng lãi suất nào trong năm nay.
Trong số các kim loại quý khác, palađi cũng giảm khoảng 7% trong phiên qua, giảm một ngày tính theo % lớn nhất trong hơn hai năm, trong khi vàng xuống dốc do số liệu của Mỹ mạnh cải thiện nhu cầu của nhà đầu tư với các tài sản rủi ro trước cuộc họp chính sách của Cục dự trữ liên bang Mỹ. Palađi giao ngay giảm 6,7% đóng cửa tại 1.366,01 USD/ounce. Trong phiên giá đã giảm khoảng 7% xuống 1.361,5 USD, mức giảm một ngày lớn nhất kể từ tháng 1/2017.
Kim loại này chủ yếu được sử dụng để hạn chế khí thải từ động cơ ô tô đã giảm khoảng 16% từ mức cao kỷ lục 1.620,52 đã chạm tới trong tháng trước.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm trong phiên qua do dự trữ tại kho LME tăng, cho thấy nhu cầu yếu và do khối lượng giao dịch giảm trước đợt nghỉ lễ tại Trung Quốc.
Giá đồng trên sàn giao dịch kim loại London đóng cửa giảm 0,1% xuống 6.396 USD/tấn, gần mức thấp nhất 4 tuần đã chạm tới trong tuần trước.
Số liệu mới nhất từ LME cho thấy dự trữ kim loại này tăng 36.325 tấn lên 232.225 tấn. Dự trữ tăng hơn 46.000 tấn hay 25% kể từ tuần trước.
Trung Quốc chiếm gần một nửa nhu cầu đồng toàn cầu ước tính khoảng 24 triệu tấn trong năm nay. Dự đoán nhu cầu phục hồi trong giai đoạn từ tháng 4 tới tháng 6/2019, trước khi hoạt động xây dựng của Trung Quốc tăng trong quý 3/2019. Kích thích tài chính và tiền tệ hồi đầu năm nay đã hỗ trợ dự đoán này. Doanh số bán ô tô của Trung Quốc giảm một lần nữa trong tháng 3/2019, giảm tháng thứ 7 nhưng tốc độ sụt giảm ít hơn.
Quặng sắt kỳ hạn tại Trung Quốc phục hồi trong phiên qua sau khi giảm trong 4 phiên, bởi nhu cầu dự trữ trước đợt nghỉ lễ Quốc tế Lao động bắt đầu vào ngày 1/5, trong khi giá thép tăng do lo ngại về hạn chế sản lượng. Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên tăng khoảng 2,3% lên 634 CNY/tấn.
Giá quặng sắt giao ngay sang Trung Quốc với hàm lượng 62% ở mức 93,80 USD/tấn, dựa trên số liệu mới nhất từ công ty tư vấn SteelHome. Thị trường này sẽ đóng cửa vào ngày 1/5 để nghỉ lễ cho đến hết tuần. Giao dịch sẽ mở cửa lại vào ngày 6/5/2019.
Lo lắng về khủng hoảng nguồn cung quặng sắt có thể dịu đi trong những ngày gần đây, nhưng vấn đề này không hoàn toàn nằm ngoài dự đoán.
Ngân hàng ANZ dẫn số liệu thống kê của một số cảng cho biết nhập khẩu quặng sắt từ nhà cung cấp hàng đầu Brazil tăng lên 4,4 triệu tấn trong tuần kết thúc vào ngày 19/4/2019, từ 3,6 triệu tấn một tuần trước đó.
Tuy nhiên, dự trữ quặng sắt đã nhập khẩu tại một số cảng của Trung Quốc giảm tiếp xuống 136 triệu tấn tính tới 26/4/2019 từ gần 149 triệu tấn đầu tháng này.
Thép cây - dùng trong xây dựng - kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 1,2% lên 3.777 CNY/tấn. Thép cuộn cán nóng, sử dụng trong ô tô và đồ dùng gia đình đóng cửa tăng 1,1% lên 3.714 CNY. Việc hạn chế sản xuất đã hỗ trợ giá thép do các nhà máy tại các thành phố sản xuất thép hàng đầu Trung Quốc được yêu cầu giảm sản xuất để cải thiện chất lượng không khí.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 7/2019 đóng cửa giảm 1,45 US cent hay 1,54% xuống 0,9265 USD/lb. Hợp đồng này tăng 1,3% trong tuần trước sau khi giảm 3 tuần liên tiếp. Mặc dù giá ổn định kể từ khi giảm xuống dưới mức thấp nhất trong 13 năm, một vụ thu hoạch lớn ở Brazil vẫn tiếp tục gây sức ép.
Giá cà phê rubusta kỳ hạn tháng 7/2019 chốt phiên giảm 7 USD hay 0,5% xuống 1.403 USD/tấn. Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong 4 tháng đầu năm nay dự kiến giảm 13,5% xuống 629.000 tấn. Việt Nam là quốc gia sản xuất robusta lớn nhất thế giới.
Đường thô kỳ hạn tháng 5/2019 đóng cửa giảm 0,63 US cent hay 5,3% xuống 11,63 US cent/lb, mức thấp nhất kể từ tháng 10/2019. Hợp đồng kỳ hạn tháng 5/2019 sẽ hết hạn trong ngày 20/4/2019. Một đại lý cho biết hợp đồng tháng 5 tới tháng 7/2019 đã suy yếu rất nhiều. Có tin đồn rằng chất lượng đường thấp. Giá đường đã giao dịch trong phạm vi nhỏ 12,5 – 13 US cent kể từ đầu tháng 3/2019.
Đường trắng kỳ hạn tháng 8 trên sàn ICE đóng cửa giảm 5,5 USD hay 1,62% xuống 334,5 USD/tấn.
Thị trường cao su Malaysia đóng cửa trái chiều do thiếu chất xúc tác, bởi các nhà đầu tư đợi số liệu sản xuất tháng 4 của Trung Quốc. Một đại lý cho biết tâm lý yếu trên thị trường cũng do xu hướng suy giảm tại các thị trường cao su kỳ hạn trong khu vực và giá dầu giảm. Giá đóng cửa của cao su SMR 20 tăng 4,5 sen RM lên 619 sen RM/kg, trong khi mủ cao su không đổi tại 487 sen RM/kg.
Giá hàng hóa thế giới
Mặt hàng
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
63,40
|
-0,10
|
-0,16%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
71,75
|
-0,29
|
-0,40%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
47.060,00
|
-1.390,00
|
-2,87%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,59
|
-0,01
|
-0,31%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
208,47
|
+0,19
|
+0,09%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
205,49
|
+0,37
|
+0,18%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
628,75
|
-2,25
|
-0,36%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
64.460,00
|
-1.660,00
|
-2,51%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.282,60
|
+1,10
|
+0,09%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.612,00
|
+22,00
|
+0,48%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
14,96
|
+0,03
|
+0,18%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
54,20
|
+0,20
|
+0,37%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
898,53
|
+2,79
|
+0,31%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.376,32
|
+6,09
|
+0,44%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
289,45
|
-0,25
|
-0,09%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
6.396,00
|
-4,00
|
-0,06%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.828,00
|
-9,00
|
-0,49%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.792,00
|
+24,00
|
+0,87%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
19.655,00
|
-270,00
|
-1,36%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
361,50
|
-0,25
|
-0,07%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
434,25
|
-1,00
|
-0,23%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
296,25
|
-1,25
|
-0,42%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
10,63
|
0,00
|
0,00%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
862,00
|
+1,25
|
+0,15%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
301,40
|
+0,50
|
+0,17%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
28,20
|
+0,01
|
+0,04%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
444,90
|
0,00
|
0,00%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.383,00
|
+48,00
|
+2,06%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
92,65
|
-1,45
|
-1,54%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,33
|
-0,32
|
-2,53%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
102,20
|
-1,35
|
-1,30%
|
Bông
|
US cent/lb
|
76,95
|
-0,75
|
-0,97%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
342,70
|
-8,00
|
-2,28%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
190,30
|
+1,00
|
+0,53%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,34
|
0,00
|
-0,07%
|
Nguồn: Bloomberg, Reuters, CafeF
Nguồn:Vinanet