Nền kinh tế Mỹ trong quý I/2018 tăng trưởng chậm hơn ước tính ban đầu. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước này trong quý I/2018 tăng 2,2% so với cùng kỳ năm ngoái, thấp hơn so với mức 2,3% đưa ra trước đây. Nền kinh tế Mỹ tăng trưởng 2,9% trong quý IV/2017.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng do đồng USD yếu đi. Kết thúc phiên giao dịch, dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 7/2018 tăng 1,48 USD lên 68,21 USD/thùng; dầu Brent giao cùng kỳ hạn trên sàn London cũng tăng 2,11 USD lên 77,50 USD/thùng.
Chênh lệch của dầu WTI và dầu Brent tăng lên khoảng 9,31 USD/thùng, với dầu Brent được hỗ trợ do các nhà đầu tư lo lắng rằng các lệnh trừng phạt của Mỹ có thể giảm các nguồn cung dầu thô từ Iran.
Giá dầu cũng được hỗ trợ bởi thông tin Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu (OPEC) và các nước ngoài OPEC duy trì thỏa thuận cắt giảm sản lượng dầu mỏ cho đến cuối năm 2018
Ngày 25/5, các nguồn tin cho biết Saudi Arabia và Nga đang thảo luận nâng sản lượng dầu mỏ khoảng 1 triệu thùng/ngày từ OPEC và các nước đồng minh ngoài OPEC. Tuy nhiên, ngày 30/5 ngân hàng trung ương Nga cho biết việc giá dầu giảm sẽ gây rủi ro cho lĩnh vực tài chính của nước này.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tăng do USD yếu đi. Giá vàng giao ngay tăng 0,32% lên 1.302,17 USD/ounce, vàng giao tháng 6/2018 tăng 0,2% lên 1.301,5 USD/ounce.
Đồng bạc xanh yếu đi tác động trực tiếp tới giá vàng khi khiến vàng được định giá bởi đồng tiền này rẻ hơn đối với người nắm giữ các loại tiền khác.
Đà tăng của giá vàng phiên này bị hạn chế do quan ngại về bất ổn chính trị tại Italy dịu đi làm giảm sức hấp dẫn của vàng như tài sản đảm bảo, theo Rob Haworth, chiến lược gia đầu tư cao cấp tại Bank Wealth Management. Italy, nền kinh tế lớn thứ ba Khu vực sử dụng đồng tiền chung euro (Eurozone), đang tìm lối thoát cho tình trạng khủng hoảng chính trị kéo dài gần ba tháng qua, với việc các đảng của nước này đang cho thấy nỗ lực trong việc thành lập chính phủ liên minh.
Lợi suất trái phiếu Kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm phiên này có mức giảm mạnh nhất trong một ngày kể từ sự kiện người dân nước Anh bỏ phiếu cho Brexit gần hai năm về trước và chạm mức 2,847%. Mức lợi suất này cao hơn nhìn chung cũng làm giảm nhu cầu đối với tài sản không sinh lời là vàng.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,9% lên 16,53 USD/ounce; bạch kim tăng 0,5% lên 908,6 USD/ounce; trong khi palađi tăng 0,2% lên 981,22 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm xuống mức thấp nhất 3 tuần do những lo ngại về bế tắc thương mại Mỹ - Trung, trong bối cảnh thị trường vốn đã bị ảnh hưởng bởi bất ổn chính trị tại Italy.
Giá đồng giao sau ba tháng trên sàn giao dịch kim loại London giảm 0,3% xuống 6.839 USD/tấn, trước đó giá đã chạm 6,727 USD/tấn, thấp nhất kể từ ngày 8/5. Dự trữ đồng được đảm bảo tại kho của LME đã giảm xuống 191.200 tấn, thấp nhất kể từ tháng 1.
Ngày 30/5, Trung Quốc cảnh báo sẵn sàng trả đũa nếu Washinton tìm kiếm một cuộc chiến tranh thương mại sau khi Mỹ cho biết vẫn áp đặt thuế trị giá 50 tỷ USD với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc.
Giá kẽm tại London tăng 1,3% lên 3.130 USD/tấn, rời khỏi mức cao nhất một tháng tại 3.129,5 USD/tấn trước đó. Giá kẽm giao ngay cao hơn 25 US cent so với hợp đồng giao sau ba tháng, trong khi một tuần trước lại thấp hơn 6,5 US/tấn, cho thấy thị trường hạn hẹp trong ngắn hạn. Lượng kẽm dự trữ tại các kho dự trữ LME giảm xuống còn 195.225 tấn, mức thấp nhất trong vòng một tháng.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica tăng do những lo ngại về xuất khẩu giảm và các dự báo thời tiết lạnh tại Brazil. Cà phê arabica tháng 7 chốt phiên tăng 0,05 US cent hay 0,04% lên 1,203 USD/lb sau khi lên mức cao nhất kể từ ngày 7/5 tại 1,222 USD/lb. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 7 giảm 9 USD hay 0,5% xuống 1.732 USD/tấn.
Các đại lý cho biết dự báo thời tiết mạnh hơn bình thường trong thời điểm cuối tháng 6 và đầu tháng 7 tại nước trồng cà phê hàng đầu thế giới Brazil đã khiến mọi người mua vào. Xuất khẩu cà phê từ Brazil trong tháng 5 có thể là 900.000 bao (60 kg/bao) ít hơn dự kiến do cuộc biểu tình của lái xe tải trên toàn quốc. Vụ thu hoạch arabica chính của Brazil vẫn chưa bắt đầu.
Với mặt hàng đường, giá đường thô kỳ hạn tháng 7 chốt phiên tăng 0,14 US cent hay 1,1% lên 12,6 US cent/lb, đường trắng kỳ hạn tháng 8 giảm 1,2 USD hay 0,3% xuống 348,9 USD/tấn.
Tình trạng bất ổn lao động đe dọa làm gián đoạn cả vụ thu hoạch và xuất khẩu tại nước sản xuất hàng đầu thế giới Brazil.
Cao su giảm giá trong phiên vừa qua do dự trữ cao và nhu cầu yếu trong bối cảnh lại dấylên lo ngại về một cuộc chiến thương mại giữa hai nền kinh tế hàng đầu thế giới.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 11 trên sàn giao dịch hàng hóa Tokyo đóng cửa giảm 2,3 JPY xuống 192,0 JPY/kg; hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 9 tại sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm 265 NDT (41,23 USD) xuống 11.655 NDT/tấn.
Zhao Wenting, nhà phân tích tại công ty Dongwu Futures cho biết “các yếu tố cơ bản vẫn hoàn toàn yếu và có tin tức đêm qua về căng thẳng thương mại Trung – Mỹ, cả hai đã gây sức ép lên giá cao su”. “Sẽ có một bản phát hành về nguồn cung trong tháng 6. Các nhà máy lốp dự kiến cắt giảm sản xuất trước và trong Hội nghị Thượng đỉnh Tổ chức Hợp tác Thượng Hải”.
Ngày 29/5, Mỹ cho biết họ vẫn giữ mối đe dọa áp đặt thuế quan trị giá 50 tỷ USD với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Đáp lại, Trung Quốc cho biết Bắc Kinh đã sẵn sàng chống lại nếu Washington tìm cách kích hoạt một cuộc chiến thương mại.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
68,21
|
+1,48
|
+1,56%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
77,50
|
+2,11
|
+2,23%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
49.180,00
|
+1.200,00
|
+2,50%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,89
|
+0,01
|
+0,24%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
219,10
|
+4,69
|
+2,19%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
222,28
|
-0,89
|
-0,40%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
680,25
|
+0,50
|
+0,07%
|
Dầu lửa Tokyo
|
JPY/kl
|
66.890,00
|
+1.080,00
|
+1,64%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.306,20
|
+0,30
|
+0,02%
|
Vàng Tokyo
|
JPY/g
|
4.539,00
|
+4,00
|
+0,09%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,52
|
-0,03
|
-0,18%
|
Bạc Tokyo
|
JPY/g
|
57,60
|
+0,50
|
+0,88%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
909,01
|
-0,23
|
-0,03%
|
Palladium
|
USD/ounce
|
988,35
|
+1,06
|
+0,11%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
306,80
|
-0,10
|
-0,03%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
6.840,00
|
-20,00
|
-0,29%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.270,00
|
-5,00
|
-0,22%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
3.130,00
|
+41,00
|
+1,33%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
20.575,00
|
+150,00
|
+0,73%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
394,50
|
+1,00
|
+0,25%
|
Lúa mì
|
US cent/bushel
|
519,00
|
-3,00
|
-0,57%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
238,25
|
-0,50
|
-0,21%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,58
|
-0,08
|
-0,73%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.022,25
|
-0,75
|
-0,07%
|
Khô dầu
|
USD/tấn
|
375,30
|
-1,60
|
-0,42%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
31,57
|
+0,09
|
+0,29%
|
Hạt cải
|
CAD/tấn
|
535,50
|
-0,20
|
-0,04%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.529,00
|
+32,00
|
+1,28%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
120,30
|
+0,05
|
+0,04%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,60
|
+0,14
|
+1,12%
|
Nước cam
|
US cent/lb
|
162,70
|
-7,20
|
-4,24%
|
Bông
|
US cent/lb
|
90,88
|
+0,03
|
+0,03%
|
Lông cừu
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
599,10
|
-10,00
|
-1,64%
|
Cao su Tokyo
|
JPY/kg
|
191,30
|
-0,70
|
-0,36%
|
Ethanol
|
USD/gallon
|
1,48
|
-0,02
|
-1,59%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet