Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục giảm do USD mạnh lên và số liệu cho thấy sản lượng khai thác dầu mỏ của Nga không thay đổi trong tháng Hai vừa qua chứng tỏ nước này thực hiện “lỏng lẻo” cam kết thỏa thuận toàn cầu nhằm hạn chế khai thác để giảm tình trạng dư dôi trên thị trường.
Đóng cửa phiên giao dịch, giá dầu ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 4/2017 trên sàn New York giảm 1,22 USD (hay 2,3%) xuống 52,61 USD/thùng, giá dầu Brent giao tháng 5/2017 tại London giảm 1,28 USD (hay 2,3%) xuống 55,08 USD/thùng.
Đồng USD tăng lên mức cao nhất 7 tuần qua so với các đồng tiền quan trọng khác, sau khi quan chức Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đưa ra những tín hiệu làm nhà đầu tư kỳ vọng lãi suất có thể tăng ngay trong tháng này.
Theo số liệu của Bộ Năng lượng Nga, sản lượng khai thác dầu mỏ trong tháng Hai vừa qua của nước này không thay đổi so với mức 11,11 triệu thùng/ngày trong tháng 1/2017, tương ứng với mức cắt giảm khai thác 100.000 thùng/ngày, hay chỉ tương đương 1/3 mức cam kết cắt giảm của Moskva với Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC).
Ngoài ra, đồng USD mạnh lên cũng làm giá dầu mỏ (tính theo đồng tiền này) trở nên đắt đỏ hơn đối với các nhà đầu tư mua vào bằng các đồng ngoại tệ khác, qua đó làm giảm nhu cầu mặt hàng này.
Giá dầu giảm ngay từ phiên giao dịch đầu tiên của tháng Ba này khi số liệu Chính phủ Mỹ cho thấy dự trữ dầu của nước này trong tuần trước đó tăng liên tục 8 tuần qua, lên mức kỷ lục 520,2 triệu thùng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng giảm mạnh do USD tăng sau những đồn đoán ngày càng tăng về khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ nâng lãi suất trong tháng Ba.
Giá vàng giao tháng 4/2017 tại Mỹ giảm 1,4% xuống 1.232,90 USD/ounce.
Giá vàng chịu sức ép theo sau số liệu cho thấy số đơn xin trợ cấp thất nghiệp tại Mỹ giảm xuống mức thấp nhất trong 44 năm. Diễn biến trên thị trường lao động kết hợp với sự gia tăng lạm phát có thể là những nhân tố thúc đẩy Fed nâng lãi suất trong cuộc họp diễn ra trong hai ngày từ 14-15/3 tới.
Các nhà giao dịch đang chờ đợi thông tin từ các bài phát biểu trong ngày 3/3 của Chủ tịch Fed Janet Yellen và Phó Chủ tịch Stanley Fischer.
Mặc dù giá vàng đang chịu ảnh hưởng tiêu cực do sự tăng giá của đồng USD và triển vọng Fed sớm thay đổi lãi suất, song các nhà phân tích cho rằng giá kim loại quý này vẫn nhận được hỗ trợ từ tình hình chính trị chưa ổn định trên toàn cầu và sự gia tăng của lạm phát.
Mới đây, ABN Amro đã nâng dự báo đối với giá vàng vào cuối năm 2017 thêm 200 USD lên 1.300 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng bị ảnh hưởng cũng bởi đồng USD mạnh và hoạt động bán kiếm lời, mặc dù vẫn được hậu thuẫn bởi báo cáo sản xuất tốt từ Trung Quốc và những nơi khác cho thấy nhu cầu vững.
Đồng giao sau 3 tháng tại London giảm 1,4% xuống 5.930 USD/tấn. Kim loại này tháng trước đã vọt lên mức cao nhất 21 tháng do sự gián đoạn nguồn cung ở Chile và Indonesia.
Tại mỏ đồng lớn nhất thế giới Escondida ở Chile, sản lượng đã giảm 12% trong tháng 2 so với cùng kỳ năm ngoái. Mỏ này cung cấp khoảng 5% tổng sản lượng đồng thế giới trong n ăm 2016, nhưng sau 25 ngày đình công sản lượng đã giảm khoảng 95.000-100.000 tấn. Bộ trưởng Bộ Mỏ Chile Aurora Williams dự báo năm nay sản lượng của mỏ sẽ chỉ đạt khoảng 1,2 triệu tấn.
Trên thị trường kim loại quý, giá cacao tại New York tăng khỏi mức thấp nhất 9 năm rưỡi, đường cũng tiếp tục tăng trong khi cà phê biến động trái chiều.
Giá đường thô kỳ hạn tăng phiên thứ 3 liên tiếp, với đường thô giao tháng 5 tăng 0,18 US cent hay 0,9% lên 19,66 US cents/lb, đường trắng giao tháng 5 tăng 4,20 USD hay 0,8% đạt 543,60 USD/tấn.
Giá cà phê arabica giao tháng 5 giảm 0,45 US cent hay 0,3% xuống 1,4435 USD/lb; đường trắng giao tháng 5 tăng 66 USD hay 3,1% lên 2.215 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
52,61
|
-0,22
|
-2,3%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
55,08
|
-1,28
|
-2,3%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
38.440,00
|
-530,00
|
-1,36%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,82
|
+0,01
|
+0,46%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
164,27
|
-0,06
|
-0,04%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
158,03
|
+0,12
|
+0,08%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
484,25
|
-2,75
|
-0,56%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
48.300,00
|
-550,00
|
-1,13%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.233,00
|
+0,10
|
+0,01%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.508,00
|
-36,00
|
-0,79%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,82
|
+0,07
|
+0,41%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
65,10
|
-2,20
|
-3,27%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
990,45
|
+2,45
|
+0,25%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
769,87
|
+2,59
|
+0,34%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
269,10
|
+0,05
|
+0,02%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
5.930,00
|
-86,00
|
-1,43%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.911,00
|
-38,00
|
-1,95%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.782,00
|
-80,00
|
-2,80%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
19.350,00
|
-175,00
|
-0,90%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
379,00
|
-0,50
|
-0,13%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
450,75
|
-2,00
|
-0,44%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
237,50
|
-0,75
|
-0,31%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
9,60
|
-0,02
|
-0,21%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.039,75
|
+2,50
|
+0,24%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
334,70
|
-0,10
|
-0,03%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
34,27
|
+0,14
|
+0,41%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
528,40
|
0,00
|
0,00%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
1.928,00
|
+31,00
|
+1,63%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
144,35
|
-0,45
|
-0,31%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,66
|
+0,18
|
+0,92%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
164,20
|
+2,85
|
+1,77%
|
Bông
|
US cent/lb
|
76,78
|
-1,08
|
-1,39%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
370,40
|
-4,50
|
-1,20%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
271,50
|
-3,20
|
-1,16%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,51
|
-0,04
|
-2,33%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet