Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 3 tháng trong bối cảnh giới đầu tư chờ số liệu về lượng dầu lưu kho tuần qua của Mỹ.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 9/2016 trên sàn New York giảm 55 cent, tương ứng 1,4%, xuống 39,51 USD/thùng. Giá dầu Brent giao tháng 10/2016 trên sàn London giảm 34 cent, tương đương 0,8%, xuống 41,80 USD/thùng. Cả giá dầu Brent và WTI đều ghi nhận mức thấp nhất kể từ tháng 4/2016. Tính từ đầu tháng 6 tới nay, giá dầu WTI đã mất hơn 20%.
Viện Dầu mỏ Mỹ (API) cho biết, theo số liệu của Viện, lượng dầu lưu kho của Mỹ trong tuần kết thúc vào 29/7 giảm 1,3 triệu thùng, nguồn cung xăng giảm 450.000 thùng trong khi dự trữ sản phẩm chưng cất tăng 539.000 thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) sẽ công bố số liệu chính thức về lượng dầu lưu kho của Mỹ trong tuần kết thúc vào 29/7 vào thứ Tư 3/8. Giới phân tích trong khảo sát của Wall Street Journal dự đoán lượng dầu lưu kho của Mỹ tuần qua giảm 900.000 thùng, dự trữ xăng giảm 200.000 thùng và nguồn cung sản phẩm chưng cất giảm 200.000 thùng.
Theo một số nhà phân tích, thị trường dầu thô đang quá thừa cung và tốc độ tái cân bằng chậm đến mức ngay cả những yếu tố địa chính trị như cuộc xung đột vũ trang tại Nigeria cũng là không đủ để bù đắp đà giảm của giá dầu.
Bên cạnh đó, các nhà máy lọc dầu tại Mỹ và châu Á đều đang bước vào giao đoạn bảo dưỡng định kỳ, kéo giảm lượng dầu thô mua vào.
Nhiều nhà phân tích tin rằng giá dầu vẫn có thể xuống mức 35 USD/thùng khi các nhà sản xuất dầu thô của Mỹ đưa thêm số giàn khoan vào hoạt động, Libya sẵn sàng trở lại thị trường xuất khẩu dầu thô trong khi sản lượng của các nước thành viên OPEC tiếp tục tăng. Tất cả các yếu tố này xuất hiện trong bối cảnh thừa cung xăng và nhiên liệu khác.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao nhất trong vòng 3 tuần khi cổ phiếu châu Âu và Mỹ giảm, USD chạm đáy hơn một tháng do số liệu kinh tế đáng thất vọng.
Giá vàng giao ngay tăng 0,9% lên 1.365,09 USD/ounce. Trong phiên có lúc giá chạm ngưỡng 1.367,33 USD/ounce, cao nhất kể từ 11/7. Giá vàng giao tháng 12/2016 trên sàn Comex (New York) tăng 1% lên 1.372,6 USD/ounce, cao nhất kể từ 6/7.
Chứng khoán Mỹ giảm điểm trong khi chứng khoán châu Âu xuống thấp nhất 2 tuần, chủ yếu do cổ phiếu ngân hàng. Euro vượt mốc 1,12 USD/EUR lần đầu tiên trong hơn một tháng qua.
Giá kim loại quý đã tăng hơn 4% kể từ mức đáy hồi tháng 7 khi số liệu kinh tế Mỹ gây thất vọng và thông điệp chủ hòa của Fed hồi tháng trước đã khiến một số nhà đầu tư tin rằng Ngân hàng trung ương Mỹ chưa thể nâng lãi suất trong tháng 9.
Theo số liệu của CME Group, tỷ lệ dự đoán Fed nâng lãi suất vào tháng 9 hiện đạt 15%, giảm so với 18% một ngày trước đó.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 1,1% lên 20,63 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,9% lên 1.167,4 USD/ounce và giá palladium tăng 0,5% lên 716,35 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê biến động trái chiều. Tại London, Robusta đảo chiều đồng loạt tăng 8 USD/tấn. Trong khi đó tại New York, arabica tiếp tục giảm 2,05-2,2 cent/lb.
Theo kết quả khảo sát của Reuters với sự tham gia của giới thương nhân và môi giới cà phê, từ giờ đến cuối năm 2016, giá cà phê Arabica trên sàn New York được dự đoán đạt 160 cent/pound trong khi giá Robusta trên sàn London đạt 1.985 USD/tấn.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, sản lượng cà phê của Brazil niên vụ mới ước đạt 55 triệu bao, cao hơn so với dự báo trước đó, trong khi sản lượng cà phê của Việt Nam đạt khoảng 26,5 triệu bao với tỷ lệ Robusta/Arabica là 95/5. Với nhu cầu nội địa ước đạt 1,7 triệu bao, dự báo nguồn cung cho xuất khẩu đạt 24,8 triệu bao.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
39,51
|
-0,55
|
-1,4%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
41,80
|
-0,34
|
-0,8%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
26.250,00
|
-960,00
|
-3,53%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,77
|
0,00
|
-0,11%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
131,23
|
+0,87
|
+0,67%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
126,54
|
+0,75
|
+0,60%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
364,25
|
+0,25
|
+0,07%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
38.570,00
|
-870,00
|
-2,21%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.355,70
|
+3,90
|
+0,29%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.429,00
|
+7,00
|
+0,16%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
20,43
|
-0,07
|
-0,34%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
66,90
|
-0,30
|
-0,45%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.154,40
|
-4,15
|
-0,36%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
714,53
|
-1,60
|
-0,22%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
220,15
|
+0,20
|
+0,09%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
4.882,00
|
-43,00
|
-0,87%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.635,00
|
-9,00
|
-0,55%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.267,00
|
+24,00
|
+1,07%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
17.875,00
|
+25,00
|
+0,14%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
333,25
|
-1,00
|
-0,30%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
406,00
|
0,00
|
0,00%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
196,00
|
-1,50
|
-0,76%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
9,69
|
+0,01
|
+0,05%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
957,50
|
-4,00
|
-0,42%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
330,40
|
-1,20
|
-0,36%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
30,14
|
-0,08
|
-0,26%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
448,00
|
-5,90
|
-1,30%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.926,00
|
+91,00
|
+3,21%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
143,45
|
-2,75
|
-1,88%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
18,81
|
-0,24
|
-1,26%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
180,85
|
+6,20
|
+3,55%
|
Bông
|
US cent/lb
|
74,45
|
+0,07
|
+0,09%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
314,40
|
-4,00
|
-1,26%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
155,50
|
-0,40
|
-0,26%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,40
|
-0,02
|
-1,62%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet