Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng mạnh do lo ngại nguồn cung trên thị trường sẽ bị thắt chặt hơn khi các lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Iran được thực hiện từ đầu tháng 11/2018.
Kết thúc phiên, dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn tháng 11/2018 tăng 1,18 USD lên 76,41 USD/thùng, dầu Brent giao tháng 12/2018 cũng tăng 1,49 USD lên 86,29 USD/thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho hay dự trữ dầu thô thương mại của nước này tăng 7,97 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 28/9/2018, cao hơn nhiều so với mức dự báo tăng 1-2 triệu thùng mà các nhà quan sát thị trường đưa ra trước đó và là tuần tăng thứ 2 liên tiếp.
Thị trường dầu lo ngại rằng Arab Saudi, không có đủ khả năng để ngăn một cú sốc trên thị trường năng lượng, và giá dầu sẽ đạt mức 100 USD/thùng trước khi kết thúc năm nay.
Cuối tháng trước, Tổng thống Donald Trump kêu gọi OPEC nâng sản lượng để hãm đà tăng của giá dầu trước thềm cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ ở Mỹ vào đầu tháng 11/2018. Song song với đó, ông Trump dự kiến áp đặt trừng phạt trở lại đối với ngành dầu lửa của Iran vào đầu tháng 11/2018. Ngoài ra, Mỹ đề nghị các quốc gia trên thế giới giảm nhập khẩu dầu từ Iran về 0 để gây sức ép buộc Tehran phải đàm phán một thỏa thuận hạt nhân mới.
Ban đầu, Trung Quốc từ chối lời kêu gọi ngừng nhập dầu Iran mà Mỹ đưa ra. Tuy nhiên, theo giới thạo tin, dưới sức ép mạnh từ chính quyền ông Trump, Trung Quốc giờ đây đã buộc phải đi leo lời kêu gọi này. Công ty lọc dầu quốc doanh Sinopec của Trung Quốc đã giảm một nửa lượng dầu nhập từ Iran trong tháng 9/2018.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm sau khi Chính phủ Italy để ngò khả năng cắt giảm thâm hụt ngân sách và nợ công, qua đó làm dịu những lo ngại của các nhà đầu tư và thúc đẩy họ hướng đến thị trường chứng khoán và những tài sản mang tính rủi ro cao khác.
Kết thúc phiên, vàng giao ngay giảm 0,3% xuống 1.199,56 USD/ounce, vàng giao tháng 12/2018 giảm 4,10 USD (0,34%) xuống 1.202,90 USD/ounce.
Chứng khoán toàn cầu đi lên, trong đó chỉ số công nghiệp Dow Jones mở cửa ở mức cao kỷ lục, và trái phiếu Italy tăng mạnh sau khi Rome cam kết sẽ thu hẹp thâm hụt ngân sách trong những năm tới.
Bên cạnh đó, đồng bạc xanh mạnh lên khiến vàng - thường được giao dịch bằng đồng tiền này - trở nên đắt đỏ hơn đối với những người nắm giữ các đồng tiền khác. Các dữ liệu kinh tế Mỹ củng cố quan điểm rằng nền kinh tế này đang tăng trưởng mạnh.
Giá vàng đã giảm trong sáu tháng qua và mất khoảng 11% giá trị, phần lớn do tác động của việc đồng USD mạnh lên.
SPDR Gold Trust, quỹ giao dịch vàng lớn nhất thế giới, cho biết lượng vàng do quỹ này nắm giữ đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 2/2016, ở mức 23,72 triệu ounce hôm 2/10/2018.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,2% lên 14,67 USD/ounce, gần mức cao của phiên trước đó là 14,91 USD/ounce, là mức cao nhất trong hơn một tháng; giá bạch kim tăng 0,5% lên 830,70 USD/ounce, trong khi giá palađi tăng 0,8% lên 1.059,72 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá nhôm tăng lên mức cao nhất hơn 3 tháng, sau khi Norsk Hydro cho biết sẽ ngừng sản xuất tại nhà máy tinh chế alumina Alunorte, dấy lên mối lo ngại về sự thiếu hụt nguyên liệu.
Giá nhôm giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 4,2% lên 2.206 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 2.238 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 15/6/2018. Nguồn cung thị trường alumina trong năm nay thắt chặt, do sự cố ngừng hoạt động tại nhà máy Norsk Hydro Brazil, lệnh trừng phạt của Mỹ đối với nhà sản xuất Rusal Nga và cuộc đình công tại nhà máy tinh chế alumina Alcoa Australia đã được giải quyết vào tuần trước. Giá nhôm cũng được hỗ trợ bởi lo ngại về dự trữ nhôm tại LME đạt 979.800 tấn, giảm hơn 1/2 kể từ tháng 1/2017 và chạm mức thấp nhất kể từ đầu năm 2008.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2018 giảm 1,05 US cent tương đương 1% xuống 1,066 USD/lb, trong phiên có lúc tăng lên 1,108 USD/lb, cao nhất gần 2 tháng và cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2018 giảm 16 USD tương đương 1% xuống 1.588 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 1.617 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 30/8/2018.
Giá đường tăng được hậu thuẫn bởi đồng real Brazil tăng mạnh, trong khi giá ca cao giảm 3%. Đồng real trong tuần này tăng do cuộc bầu cử cho ứng cử viên Tổng thống Brazil, Jair Bolsonaro. Vòng bỏ phiếu đầu tiên sẽ bắt đầu vào chủ nhật (7/10/2018).
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2019 tăng 0,16 US cent tương đương 1,3% lên 12,23 US cent/lb, trong phiên có lúc đạt 12,38 US cent/lb, cao nhất 3,5 tháng và giá đường trắng kỳ hạn tháng 12/2018 tăng 5,2 USD tương đương 1,6% lên 338,7 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 341,9 USD/ounce, cao nhất 2,5 tháng.
Giá ca cao kỳ hạn tháng 12/2018 trên sàn New York giảm 67 USD tương đương 3,2% xuống 2.019 USD/tấn và ca cao giao cùng kỳ hạn trên sàn London giảm 43 GBP tương đương 2,8% xuống 1.498 GBP/tấn, trong phiên có lúc giảm 3% xuống 1.494 GBP/tấn.
Giá đậu tương và ngô đều giảm do hoạt động bán ra ồ ạt sau 2 ngày tăng, mặc dù lo ngại thời tiết mưa có thể trì hoãn tiến độ thu hoạch tại một số khu vực Trung tây Mỹ.
Giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2018 trên sàn Chicago giảm 4-1/2 US cent xuống 8,61-1/2 USD/bushel, trong phiên có lúc đạt mức cao nhất gần 6 tuần và giá ngô kỳ hạn tháng 12/2018 giảm 2-3/4 US cent xuống 3,64-3/4 USD/bushel. Cả 2 hàng hóa đều giảm dưới mức trung bình 50 ngày sau khi đạt gần mức kỹ thuật quan trọng trong ngày thứ ba (2/10/2018) – lần đầu tiên – kể từ giữa tháng 8/2018.
Giá sữa toàn cầu kết thúc phiên đấu giá vừa qua giảm phiên thứ 4 liên tiếp, do nguồn cung vượt nhu cầu. Chỉ số giá sữa toàn cầu - GDT Price Index – giảm 1,9% so với phiên trước đó (cách đây 2 tuần), với giá bán trung bình là 2.901 USD/tấn. Chỉ số này giảm 1,3% trong phiên trước đó. Trong đó giá sữa bột nguyên kem (WMP) giảm 1,2% so với dự kiến thị trường giảm 0,4%.
Sản lượng sữa của New Zealand - nước xuất khẩu sữa lớn nhất thế giới – tăng mạnh, đã khiến giá sữa giảm ngay cả khi nhu cầu, đặc biệt từ châu Á tăng. Amy Castleton, nhà phân tích sữa thuộc NZX cho biết: "Nhu cầu đối với sữa WMP tăng cao...Bắc Á (bao gồm Trung Quốc) mua hơn 1/2 lượng sữa WMP đã bán".
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo chấm dứt chuỗi tăng 3 phiên liên tiếp, do các nhà đầu tư bán ra chốt lời.Giá cao su kỳ hạn tháng 3/2019 trên sàn Tokyo giảm 2,9 JPY xuống 169,5 JPY (1,49 USD)/kg, sau khi đạt mức cao nhất 1 tháng (174,2 JPY/kg) trong phiên trước đó và giá cao su kỳ hạn tháng 11/2018 trên sàn SICOM giảm từ mức cao nhất gần 2 tuần trong phiên trước đó, giảm 0,9 US cent xuống 133,1 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới
Mặt hàng
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
76,41
|
+1,18
|
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
86,29
|
+0,49
|
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
57.760,00
|
+1.080,00
|
+1,91%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,24
|
+0,01
|
+0,28%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
212,73
|
-1,05
|
-0,49%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
242,99
|
-0,73
|
-0,30%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
747,75
|
+5,50
|
+0,74%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
75.080,00
|
+1.080,00
|
+1,46%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.201,70
|
-1,20
|
-0,10%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.394,00
|
-2,00
|
-0,05%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
14,64
|
-0,04
|
-0,24%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
53,90
|
+0,10
|
+0,19%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
824,87
|
-0,88
|
-0,11%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.059,55
|
+0,30
|
+0,03%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
282,05
|
-1,35
|
-0,48%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
6.267,00
|
-13,00
|
-0,21%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.206,00
|
+88,00
|
+4,15%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.650,00
|
-15,00
|
-0,56%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
18.990,00
|
+35,00
|
+0,18%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
365,00
|
+0,25
|
+0,07%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
516,75
|
+1,50
|
+0,29%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
275,25
|
+0,25
|
+0,09%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
10,50
|
+0,01
|
+0,05%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
861,75
|
+0,25
|
+0,03%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
311,60
|
+0,40
|
+0,13%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
29,77
|
-0,07
|
-0,23%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
499,40
|
+0,30
|
+0,06%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.019,00
|
-67,00
|
-3,21%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
106,60
|
-1,05
|
-0,98%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,23
|
+0,16
|
+1,33%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
146,50
|
-0,25
|
-0,17%
|
Bông
|
US cent/lb
|
76,68
|
+0,22
|
+0,29%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
353,60
|
+7,30
|
+2,11%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
169,90
|
+0,40
|
+0,24%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,31
|
-0,01
|
-0,68%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet