menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG sáng 5/10/2018: Giá dầu giảm, cà phê hồi phục

15:10 05/10/2018

Vinanet -Phiên 4/10/2018 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 5/10/2018 giờ VN), giá dầu quay đầu giảm sau thông tin Nga và Saudi Arabia sẽ tăng sản lượng.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm khi triển vọng Saudi Arabia và Nga sẽ bơm thêm dầu ra thị trường.
Kết thúc phiên, dầu Brent Biển Bắc giảm 1,71 USD, hay 1,98%, xuống còn 84,58 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 2,08 USD, hay 2,72% xuống 74,33 USD/thùng.
Giới đầu tư tích cực bán ra chốt lời sau khi giá dầu Brent trong phiên trước đó leo lên mức cao nhất kể từ tháng 2/2012, còn giá dầu WTI cũng chạm mức cao nhất kể từ tháng 1/2018.
Thị trường chứng khoán Mỹ sa sút khi các chỉ số chính ở Phố Wall đều mất điểm cũng gây áp lực lên giá dầu trong phiên vừa qua (thị trường dầu đôi khi vẫn biến động theo diễn biến trên thị trường chứng khoán). Bên cạnh đó, lượng dầu thô dự trữ tại mỏ Cushing ở Oklahoma của Mỹ đã tăng khoảng 1,7 triệu thùng chỉ trong khoảng 28/9 - 3/10/2018, từ đó gây thêm áp lực giảm giá.
Lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Iran, sẽ có hiệu lực từ ngày 4/11 tới. Điều này khiến giá dầu liên tục tăng trong thời gian vừa qua. Bộ trường Năng lượng Saudi Arabia Khalid al-Falih ngày 4/10 cho biết Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) có thể tăng sản lượng thêm 1,3 triệu thùng/ngày. Hãng tin Reuters ngày 4/10/2018 đưa tin Nga và Saudi Arabia đã đạt được một thỏa thuận riêng trong việc gia tăng sản lượng hồi tháng Chín vừa qua.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng ổn định quanh mức 1.200 USD/ounce do đồng USD cao và có thể sẽ còn tăng nữa sau những chính sách thắt chặt của Mỹ sau những thông tin lạc quan về kinh tế Mỹ - một tín hiệu củng cố khả năng Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ.
Vàng giao ngay tăng 0,1% lên 1.197,87 USD/ounce và vàng kỳ hạn giao sau tại Mỹ giảm 1,3 USD tương đương 0,11% xuống 1.201,6 USD/ounce. Vào đầu phiên giao dịch, giá vàng đã vượt ngưỡng 1.200 USD/ounce.
Fed đã nâng lãi suất vào tuần trước, đồng thời cho biết họ có kế hoạch tăng lãi suất thêm 4 lần nữa tính đến cuối năm 2019. Quyết định này được đưa ra trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế của Mỹ ổn định và thị trường việc làm liên tục được cải thiện trong gần 2 năm qua, kể từ khi ông Donald Trump lên làm tổng thống.
Thị trường tiếp tục đánh cược vào đồng USD sau khi Chủ tịch Fed Jerome Powell khẳng định sẽ đưa ra các chính sách dựa trên diễn biến của nền kinh tế và không phụ thuộc vào các vấn đề chính trị.
Trước đó, ông Donald Trump liên tục trì trích Fed đã khiến đồng USD mạnh lên và làm ảnh hưởng tới thương mại của nước này. Ông Trump không muốn Fed tiếp tục tăng lãi suất. Đây cũng là lý do mà ông Trump không đề cử bà Janet Yellen tiếp tục làm chủ tịch Fed mà thay vào đó là ông Powell.
Tuy nhiên, quan điểm của chủ tịch mới vẫn khá rõ ràng rằng ngân hàng trung ương Mỹ sẽ độc lập với Nhà Trắng và chủ tịch Fed cũng cho rằng nền kinh tế Mỹ hiện không có dấu hiệu sẽ suy thoái.
Vàng giảm giá còn do SPDR Gold Trust, quỹ giao dịch vàng lớn nhất thế giới, liên tục giảm lượng vàng do họ nắm giữ, hiện chỉ còn 731 tấn, mức thấp nhất từ tháng 2/2016 đến nay.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng kỳ hạn giao sau trên sàn London tăng 0,4% lên 6.290 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 6.393,5 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 10/7/2018 do dự kiến nhu cầu tăng. Nhà khai thác mỏ lớn BHP dự báo việc mở rộng ra nước ngoài của Trung Quốc có thể thúc đẩy sử dụng đồng thêm 1,6 triệu tấn, tương đương 7% trong tổng nhu cầu hàng năm.
Giá nhôm giảm sau khi đạt mức cao nhất trong hơn 3 tháng, do các nhà đầu tư lo ngại lạm phát Mỹ tăng trở lại. Thị trường chứng khoán Mỹ giảm trong khi lợi tức trái phiếu tăng lên mức cao nhất nhiều năm. Sau khi có số liệu tích cực về nền kinh tế Mỹ, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Jerome Powell cho rằng nền kinh tế Mỹ có thể tăng trưởng khá trong thời gian dài. Trước đó trong phiên, giá nhôm được hỗ trợ bởi lo ngại về khả năng thiếu hụt nguồn cung, sau khi Norsk Hydro của Brazil công bố ngừng hoạt động của nhà máy tinh chế alumina Alunorte. Tuy nhiên, nhà phân tích Ross Strachan thuộc Capital Economics cho biết, đây chỉ là yếu tố tạm thời.
Giá nhôm giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 1,7% xuống 2.169,5 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 2.267 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 14/6/2018.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê thị trường thế giới hồi phục nhưng thị trường Việt Nam và Indonesia vẫn trầm lắng, do dự trữ ở cả hai nước này ở mức thấp. Cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2018 tăng 0,35 US cent tương đương 0,3% lên mức 1,0695 USD/lb, và cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2018 tăng 28 USD tương đương 1,8% lên 1.616 USD/tấn.
Giá đường tăng phiên thứ 4 liên tiếp lên mức cao mới 3,5 tháng, trong khi giá cà phê cũng tăng trước cuộc bầu cử Tổng thống tại nước sản xuất lớn nhất thế giới – Brazil. Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2019 tăng 0,1 US cent tương đương 0,8% lên 12,33 US cent/lb và giá đường trắng kỳ hạn tháng 12/2018 tăng 2,9 USD tương đương 0,9% lên 341,6 USD/tấn.
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo kết thúc phiên duy trì ổn định, do đồng JPY giảm so với USD và dự trữ suy giảm bù đắp sự suy yếu giá dầu. Giá cao su kỳ hạn tháng 3/2019 trên sàn Tokyo không thay đổi ở mức 169,5 JPY (1,48 USD)/kg, trong khi đó giá cao su kỳ hạn tháng 11/2018 trên sàn SICOM giảm 0,2 US cent xuống 133,2 US cent/kg. Dự trữ cao su tấm hun khói (RSS) tại Tokyo tính đến ngày 20/9/2018 giảm 372 tấn xuống 10.160 tấn, so với 10 ngày trước đó.
Giá hàng hóa thế giới

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

74,33

2,08

-2,27%

Dầu Brent

USD/thùng

84,58

-1,71

-1,98%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

57.230,00

-630,00

-1,09%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

3,19

+0,02

+0,76%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

211,50

+1,46

+0,70%

Dầu đốt

US cent/gallon

241,10

+1,13

+0,47%

Dầu khí

USD/tấn

742,00

-2,75

-0,37%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

74.390,00

-670,00

-0,89%

Vàng New York

USD/ounce

1.203,40

+1,80

+0,15%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.388,00

-2,00

-0,05%

Bạc New York

USD/ounce

14,63

+0,04

+0,27%

Bạc TOCOM

JPY/g

53,20

-0,50

-0,93%

Bạch kim

USD/ounce

826,28

+1,37

+0,17%

Palađi

USD/ounce

1.058,85

+1,90

+0,18%

Đồng New York

US cent/lb

278,90

+1,15

+0,41%

Đồng LME

USD/tấn

6.290,00

+23,00

+0,37%

Nhôm LME

USD/tấn

2.169,50

-36,50

-1,65%

Kẽm LME

USD/tấn

2.654,00

+4,00

+0,15%

Thiếc LME

USD/tấn

18.975,00

-15,00

-0,08%

Ngô

US cent/bushel

368,50

+1,00

+0,27%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

520,75

+2,75

+0,53%

Lúa mạch

US cent/bushel

286,75

-1,25

-0,43%

Gạo thô

USD/cwt

10,69

-0,09

-0,83%

Đậu tương

US cent/bushel

861,75

+2,50

+0,29%

Khô đậu tương

USD/tấn

313,40

+1,20

+0,38%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,54

-0,07

-0,24%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

497,50

-1,50

-0,30%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.010,00

-9,00

-0,45%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

106,95

+0,35

+0,33%

Đường thô

US cent/lb

12,33

+0,10

+0,82%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

144,60

-1,90

-1,30%

Bông

US cent/lb

76,17

+0,17

+0,22%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

361,40

+7,80

+2,21%

Cao su TOCOM

JPY/kg

170,20

+0,70

+0,41%

Ethanol CME

USD/gallon

1,32

+0,01

+0,76%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg