Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm tiếp sau khi Mỹ công bố báo cáo cho thấy dự trữ dầu hàng tuần của nước này gia tăng.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 3/2018 trên sàn New York giảm 1,6 USD tương đương 2,5% xuống 61,79 USD/thùng, dầu Brent giao tháng 4/2018 trên sàn London giảm 1,35 USD tương đương 2% xuống 65,51 USD/thùng.
Giá dầu WTI đã giảm 4 phiên liên tiếp với mức giảm 6% trong khoảng thời gian đó.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết, dự trữ dầu của nước này tăng 1,9 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 2/2 lên 420,3 triệu thùng, là tuần thứ 2 liên tiếp tăng sau 11 tuần sụt giảm trước đó. Dự trữ xăng cũng tăng 3,4 triệu thùng lên 245,5 triệu thùng, và các sản phẩm dầu chưng cất tăng 3,9 triệu thùng lên 141,8 triệu thùng.
Trong báo cáo vừa công bố, EIA cho biết sản lượng dầu Mỹ nhiều khả năng sẽ vượt ngưỡng 11 triệu thùng/ngày vào cuối năm 2018, sớm hơn một năm so với dự đoán đưa ra hồi tháng trước.
Sản lượng dầu của Mỹ đã tăng đều đặn trong những tháng gần đây và được dự đoán sẽ đạt mức bình quân 10,24 triệu thùng/ngày trong quý I, tiếp tục tăng lên khoảng 11,04 triệu thùng/ngày trong quý IV/2018.
Số liệu cho thấy sản lượng dầu của Mỹ trong tháng 11/2017 đã vượt mốc 10 triệu thùng/ngày lần đầu tiên kể từ năm 1970, và gần chạm mức cao kỷ lục từ trước đến nay. Từ năm 1953 đến nay, Mỹ là nước nhập khẩu ròng năng lượng, nhưng trong báo cáo mới nhất, EIA dự đoán quốc gia này sẽ trở thành nước xuất khẩu ròng năng lượng vào năm 2022.
Lượng dầu thô xuất khẩu của Mỹ đã tăng khá mạnh kể từ khi Washington dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu kéo dài hàng chục năm vào cuối năm 2015, qua đó hỗ trợ cho giá dầu thô dù sản lượng gia tăng.
Bên cạnh đó, EIA cũng dự đoán nhu cầu đối với dầu của Mỹ sẽ tăng thêm lần lượt 450.000 thùng/ngày và 350.000 thùng/ngày trong năm 2018 và 2019.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tiếp tục giảm do giới đầu tư dự đoán Mỹ sẽ tăng lãi suất.
Giá vàng giao ngay giảm 0,9% xuống 1.313,67 USD/ounce, đầu phiên có lúc giá chỉ 1.311,66 USD, mức thấp nhất kể từ 10/1. Vàng giao tháng 4/2018 giảm 14,9 USD, tương đương 1,1%, xuống mức 1.329,5 USD/ounce khi đóng cửa ngày giao dịch 7/2.
Về những kim loại khác, giá bạc giao tháng 3/2018 giảm 9,1 US cent tương đương 0,55%, xuống còn 16,58 USD/ounce; giá bạch kim giao tháng 4/2018 giảm 1,2 USD, tương đương 0,12%, xuống còn 994,3 USD/ounce.
Nhà đầu tư dự đoán Mỹ có thể tăng lãi suất 4 lần trong năm 2018. Lãi suất tăng sẽ khiến vàng kém hấp dẫn hơn đối với giới đầu tư. Bên cạnh đó, đồng USD tăng cũng gây sức ép tới giá vàng được tính bằng đồng USD. Chỉ số đồng USD tăng lên 89,60, tăng chưa đầy 0,1%, sau khi chạm mức thấp nhất trong ba năm qua vào hồi tuần trước.
Do hầu hết hàng hóa được định giá bằng USD nên đồng tiền này tăng giá có thể gây bất lợi đối với các tài sản như vàng, làm giám sức ép của kim loại quý này đối với những người mua sử dụng các loại đồng tiền giảm giá so với USD.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica tăng 0,45 US cent tương đương 0,37% lên 1,233 USD/lb, trong khi robusta giảm 18 USD tương đương 1% xuống 1.786 USD/tấn.
Tổ chức Cà phê Quốc tế mới đây đã nâng dự báo về sản lượng cà phê toàn cầu năm 2017/18 lên 158,93 triệu bao loại 60 kg, so với mức 158,78 triệu bao dự đoán trước đây.
Với mặt hàng đường, giá đường thô tăng 0,16 US cent tương đương 1,16% lên 14 US cent/lb, sau khi có lúc chạm mức cao nhất 3 tuần là 14,04 US cent. Đường trắng tăng 3,4 USD tương đương 0,95% lên 361 USD/tấn.
Tuy nhiên, thị trường đường vẫn tiếp tục chịu áp lực bởi dự báo nguồn cung dư thừa trên toàn cầu do sản lượng tăng mạnh ở Liên minh châu Âu, Thái Lan, Pakistan và Ấn Độ.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
61,79
|
-1,6
|
-2,5%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
65,51
|
-1,35
|
-2%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
41.430,00
|
-1.310,00
|
-3,07%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,71
|
+0,01
|
+0,37%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
176,01
|
-0,59
|
-0,33%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
192,23
|
-0,90
|
-0,47%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
575,75
|
-5,75
|
-0,99%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
56.640,00
|
-1.450,00
|
-2,50%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.319,30
|
-15,0
|
-0,9
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.618,00
|
-38,00
|
-0,82%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,28
|
+0,04
|
+0,26%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
57,70
|
-1,20
|
-2,04%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
979,60
|
-0,98
|
-0,10%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
986,41
|
-3,06
|
-0,31%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
311,20
|
+2,45
|
+0,79%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.880,00
|
-196,00
|
-2,77%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.158,00
|
-12,00
|
-0,55%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
3.380,00
|
-77,00
|
-2,23%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
21.610,00
|
-115,00
|
-0,53%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
365,25
|
0,00
|
0,00%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
463,00
|
+2,50
|
+0,54%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
269,75
|
-3,25
|
-1,19%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,45
|
-0,05
|
-0,44%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
984,50
|
+1,50
|
+0,15%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
335,90
|
+0,50
|
+0,15%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
32,63
|
+0,07
|
+0,21%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
498,00
|
-0,20
|
-0,04%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.037,00
|
-28,00
|
-1,36%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
123,30
|
+0,45
|
+0,37%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
14,00
|
+0,16
|
+1,16%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
145,45
|
-0,85
|
-0,58%
|
Bông
|
US cent/lb
|
75,96
|
-0,23
|
-0,30%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
493,70
|
+9,70
|
+2,00%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
192,60
|
-2,90
|
-1,48%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,41
|
-0,01
|
-1,05%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet