menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG tuần tới 11/6: USD yếu đi hỗ trợ giá tăng

14:09 11/06/2016

Thị trường thế giới tuần tới 10/6 (kết thúc vào rạng sáng 11/6 giờ VN), giá hầu hết các hàng hóa nguyên liệu trên thị trường thế giới đều tăng, được hỗ trợ bởi đồng USD và chứng khoán sụt giảm.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu phiên cuối tuần quay đầu giảm xuống dưới 50 USD/thùng khi số giàn khoan của Mỹ trong tuần kết thúc vào 10/6 tăng thêm 3 giàn. Tuy nhiên, cả tuần giá vẫn tăng, với dầu WTI tăng 0,9%, còn dầu Brent tăng 1,8%.
Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 7/2016 trên sàn New York giảm 1,49 USD, tương đương 2,9%, xuống 49,07 USD/thùng. Giá dầu Brent giao tháng 8/2016 trên sàn ICE Futures Europe giảm 1,41 USD, tương ứng 2,7%, xuống 50,54 USD/thùng.
Theo số liệu của Baker Hughes công bố hôm thứ Sáu 10/6, số giàn khoan của Mỹ trong tuần kết thúc vào 10/6 tăng thêm 3 giàn lên 328 giàn, ghi nhận tuần thứ 2 tăng liên tiếp.
Sản lượng dầu thô của Mỹ đã giảm trong những tháng gần đây khi giá dầu ở mức thấp khiến nhiều công ty phải cắt giảm chi phí khoan giếng dầu mới. Nhưng giờ đây giá dầu đã hồi phục lên mức được cho là có lãi đối với một số hãng năng lượng, nên giới phân tích nhận định, số giàn khoan có thể tiếp tục tăng và đà giảm sản lượng dầu thô của Mỹ sẽ chậm lại - ảnh hưởng bất lợi đến đà hồi phục của giá dầu.
Tuy vậy, theo các nhà phân tích, sự gián đoạn nguồn cung từ Nigeria đến Canada sẽ vẫn tiếp tục hỗ trợ giá dầu. Tình trạng này đã khiến nguồn cung toàn cầu giảm 3 triệu thùng trong những tuần gần đây.
Giá dầu đã tăng khoảng 90% kể từ mức đáy 13 năm hồi đầu năm nay sau khi sự gián đoạn nguồn cung tại nhiều khu vực trên thế giới làm tăng đồn đoán tình trạng thừa cung toàn cầu có thể giảm nhanh hơn dự kiến.
Tuy nhiên, một số nhà quan sát thị trường cảnh báo rằng giá dầu lên cao có thể khuyến khích các nhà sản xuất tăng sản lượng, làm trầm thêm tình trạng thừa cung.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng tuần thứ 2 liên tiếp khi USD và chứng khoán giảm.
Phiên cuối tuần, giá vàng giao ngay có lúc vọt lên 1.277,7 USD - mức cao nhất kể từ ngày 18/5. Chốt phiên, kim loại quý này đóng cửa ở 1.273,21 USD, giảm so với trước đó nhưng tính chung cả tuần giá vàng vẫn tăng hơn 2%. Vàng kỳ hạn giao tháng 8 chốt phiên cũng tăng 0,3% lên 1.275,9 USD.
Giá vàng bật tăng trở lại nhờ khả năng lãi suất USD thay đổi ngay trong tháng 6 không còn cao do báo cáo việc làm của Mỹ cho thấy tình hình kinh tế chưa khả quan như nhiều người kỳ vọng. Mặc dù vậy, theo nhiều chuyên gia, giá vàng còn được hỗ trợ bởi những căng thẳng về việc chuẩn bị trưng cầu Anh rời liên minh châu Âu (EU).
"Khi mà thị trường hết lo ngại Fed tăng lãi suất trong tuần sau thì các nhà đầu tư lại có mối quan tâm mới với khả năng Anh có thể rời EU. Điều này đã thúc đẩy nhu cầu mua vàng", Jens Pedersen - chuyên gia cấp cao của Danks Bank nói.
"Nếu Fed chần chừ giảm lãi suất trong tháng 6 hoặc tháng 7 và không đưa ra một chỉ báo cụ thể, giá vàng sẽ còn được hỗ trợ thêm, chưa kể đồng đôla cũng yếu đi", Daneil Briesemann - chuyên gia của Commerzbank nói.
Tổng tài sản nắm giữ của SPDR Gold Trust - Quỹ tín thác vàng lớn nhất thế giới hôm thứ Năm đã tăng lên 887,38 tấn - mức cao nhất kể từ tháng 10/2013.
Trên thị trường kim loại cơ bản, đồng giảm giá mạnh trái với xu hướng giá hầu hết các hàng hoá khác tăng, do lo ngại về kinh tế Trung Quốc.

Đóng cửa phiên giao dịch cuối tuần, đồng giảm giá xuống mức thấp nhất 4 tháng, là 2,0185 USD/lb trên sàn New York, bất chấp số liệu cho thấy nhập khẩu đồng tinh luyện của Trung Quốc trong 5 tháng đầu năm nay tăng 22% so với cùng kỳ năm ngoái.

Nguồn: LME, SteelIndex, COMEX, NYMEX

Đồng trở thành kim loại giảm giá mạnh thứ 2 trong năm nay chri sau chì, và đã giảm hơn 12% kể từ cuối tháng 4 tới nay.
Trên thị trường nông sản, đậu tương tăng tuần thứ 9 liên tiếp, kỳ tăng dài nhất trong vòng 43 năm trở lại đây, bởi dự báo thời tiết bất lợi làm giảm sản lượng của Brazil và Argentina, thúc đẩy xuất khẩu từ Mỹ.
Đậu tương kỳ hạn giao tháng 7 trên sàn Chicago phiên cuối tuần tăng 0,2% lên 11,78-1/4 USD/bushel, cao nhất kể từ tháng 6/2014.
Với cà phê, giá diễn biến trái chiều trong phiên cuối tuần. Tại London, giá robusta giảm 38-42 USD/tấn, ghi nhận phiên giảm thứ 2 liên tiếp. Trong khi đó tại New York, giá arabica tăng 2,7-3 cent/lb.
Nhà phân tích Brazil Safras & Mercado cho biết, tính đến ngày 6/6, nông dân Brazil đã bán 25% sản lượng cà phê vụ mới - được dự đoán đạt 56,4 triệu bao.
Trong khi đó, Rabobank đã hạ dự báo thâm hụt cà phê toàn cầu niên vụ 2015-2016 xuống 800.000 triệu bao so với 1,2 triệu bao dự báo trước đó. Rabobank cũng nâng ước tính thâm hụt cà phê niên vụ 2016-2017 lên 2,2 triệu bao so với 700.000 bao dự kiến trước đó.
Giá hàng hóa thế giới

 

Hàng hóa

ĐVT

Giá 4/6

Giá 11/6

Giá 1/6 so với 10/6

Giá 1/6 so với 10/6 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

48,62

49,07

-1,49

-2,95%

Dầu Brent

USD/thùng

49,64

50,54

-1,41

-2,71%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

31.350,00

32.000,00

-730,00

-2,23%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,40

2,56

-0,06

-2,33%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

160,75

155,96

-5,90

-3,65%

Dầu đốt

US cent/gallon

148,81

151,60

-3,52

-2,27%

Dầu khí

USD/tấn

443,25

451,50

-9,00

-1,95%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

44.370,00

44.890,00

-820,00

-1,79%

Vàng New York

USD/ounce

1.242,90

1.275,90

+3,20

+0,25%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.244,00

4.359,00

+23,00

+0,53%

Bạc New York

USD/ounce

16,44

17,33

+0,06

+0,36%

Bạc TOCOM

JPY/g

55,90

59,30

+0,20

+0,34%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

987,03

203,05

-0,85

-0,42%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

554,50

4.510,00

-5,00

-0,11%

Đồng New York

US cent/lb

211,30

1.573,00

-4,00

-0,25%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

4.688,00

2.086,00

+16,50

+0,80%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

1.544,00

17.100,00

+75,00

+0,44%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

1.992,00

203,05

-0,85

-0,42%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

16.590,00

4.510,00

-5,00

-0,11%

Ngô

US cent/bushel

418,25

423,00

-3,50

-0,82%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

497,25

495,00

-15,25

-2,99%

Lúa mạch

US cent/bushel

188,00

201,75

-3,50

-1,71%

Gạo thô

USD/cwt

11,37

11,36

+0,04

+0,31%

Đậu tương

US cent/bushel

1.132,00

1.162,75

+10,00

+0,87%

Khô đậu tương

USD/tấn

414,30

409,30

+5,80

+1,44%

Dầu đậu tương

US cent/lb

32,26

32,76

-0,27

-0,82%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

520,40

525,50

-0,60

-0,11%

Cacao Mỹ

USD/tấn

3.030,00

3.099,00

+5,00

+0,16%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

127,10

136,95

+3,00

+2,24%

Đường thô

US cent/lb

18,75

19,73

-0,07

-0,35%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

158,50

167,55

+0,95

+0,57%

Bông

US cent/lb

63,92

65,07

-0,23

-0,35%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

301,80

306,10

+3,40

+1,12%

Cao su TOCOM

JPY/kg

158,60

151,20

+3,20

+2,16%

Ethanol CME

USD/gallon

1,67

1,66

-0,02

-1,13%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg