menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG tuần tới 25/6: Biến động mạnh do Brexit

15:55 25/06/2016

Vinanet - Gần 52% cử tri Anh trong cuộc bỏ phiếu hôm 23/6 đã quyết định ủng hộ việc nước này rời khỏi EU, gây sốc đối với nhà đầu tư trên toàn thế giới - mong chờ một kết quả trái ngược. Chứng khoán toàn cầu giảm mạnh và bảng Anh tụt dốc so với USD khi giới đầu tư đổ tiền vào tài sản an toàn như vàng.
Việc người Anh bỏ phiếu quyết định ra khỏi EU đã buộc Thủ tướng Anh David Cameron phải từ chức và giáng một đòn mạnh nhất vào tính đoàn kết của EU kể từ Thế chiến thứ 2.
Thị trường chứng khoán toàn cầu mất 2 nghìn tỷ USD khi bảng Anh có mức giảm kỷ lục trong một ngày xuống thấp nhất 31 năm.
Đồng tiền chung cũng chịu áp lực khi giới đầu tư lo ngại rằng Brexit sẽ tạo tiền lệ cho các phong trào tương tự tại các nước khác ở châu Âu.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm mạnh sau khi cử tri Anh bỏ phiếu quyết định ra khỏi EU, gây ra làn sóng bán tháo trên khắp các thị trường.

Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 8/2016 trên sàn New York giảm 2,47 USD, tương đương 4,9%, xuống 47,64 USD/thùng, trong phiên có lúc giá xuống 46,7 USD/thùng. Giá dầu Brent giao cùng kỳ hạn trên sàn London giảm 2,5 USD, tương ứng 4,9%, xuống 48,41 USD/thùng.

Chỉ số Đôla Wall Street Journal, theo dõi USD với 16 đồng tiền trong giỏ tiền tệ, tăng 1,7%. USD tăng sẽ gây áp lực lên giá dầu.

Cả giá dầu Brent và WTI đều ghi nhận mức giảm lớn nhất trong một ngày kể từ tháng 2/2016.
Giá dầu liên tục biến động trong những phiên gần đây khi bất ổn về cuộc bỏ phiếu Brexit, khiến các thị trường rung lắc. Sau khi xuống thấp nhất 13 năm hồi quý I/2016, giá dầu đã tăng hơn 80% do đồn đoán thừa cung toàn cầu đang giảm. Nhưng một số nhà phân tích cho rằng thị trường vẫn thừa cung và cảnh báo giá dầu có thể giảm trong những tháng tới.
Cuộc bỏ phiếu của người Anh cũng làm tăng tình trạng bất ổn trong hoạt động sản xuất dầu thô tại Biển Bắc của Scotland khi Thủ tướng Thứ nhất cho biết Đảng Quốc gia Scotland sẽ tiến hành cuộc bỏ phiếu mới về việc tách ra nếu Liên hiệp Anh quyết định rời EU. Sản lượng dầu thô của Liên hiệp Anh đạt gần 1 triệu thùng/ngày, tương đương 1% sản lượng toàn cầu.
Cũng trong hôm thứ Sáu 24/6, công ty dịch vụ giếng dầu Baker Hughes cho biết, số giàn khoan của Mỹ trong tuần kết thúc vào 24/6 giảm lần đầu tiên trong 4 tuần qua, nhưng số giếng dầu tại khu vực sản xuất dầu đá phiến ở Texas và North Dakota lại tăng. Số giếng dầu tăng trong những tuần gần đây khiến giới đầu tư lo ngại rằng giá dầu ở mức 50 USD/thùng có thể khuyến khích các nhà sản xuất dầu Mỹ đầu tư vào hoạt động sản xuất và lại “làm lụt” thị trường vốn đang thừa cung.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao kỷ lục 2 năm khi giới đầu tư tìm tài sản trú ẩn an toàn.
Giá vàng giao ngay tăng 4,9% lên 1.3217,2 USD/ounce, trong phiên có lúc giá đạt đỉnh 1.358,2 USD/ounce. Vàng giao tháng 8/2016 tăng 4,7% lên 1.322,4 USD/ounce, mức tăng lớn nhất trong một ngày kể từ tháng 9/2013.
Tính theo bảng Anh, giá vàng tăng 2 con số lên 1.000 bảng/ounce, lần đầu tiên trong hơn 3 năm qua, tăng 21% trong đầu phiên giao dịch trong khi giá vàng tính theo euro tăng 13%.Giá vàng chốt phiên tính bằng bảng Anh đứng ở 961,82 bảng/ounce, tăng 14% trong khi giá vàng tính bằng euro tăng 7,3% lên 1.182,47 euro/ounce, rơi khỏi đỉnh 1.244,34 euro.
Số hợp đồng kỳ hạn vàng trên sàn Comex vượt 576.850 hợp đồng, cao thứ 2 trong lịch sử, tương đương 57,7 triệu ounce vàng trị giá 76,3 tỷ USD được giao dịch.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 2,65% lên 17,73 USD/ounce, giá bạch kim tăng 1,83% lên 977,6 USD/ounce trong khi giá palladium giảm 2,8% xuống 548,2 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng loạt giảm do USD tăng. Giảm mạnh nhất là kẽm và thiếc, xuống mức thấp nhất 3 tuần. Kim loại đồng giá giảm mạnh nhất kể từ tháng 7 năm ngoái, từ mức 4.795 USD phiên trước đó – cao nhất kể từ ngày 6/5. Tuy nhiên, kim loại không mất giá nhiều như một số mặt hàng khác, bởi thị trường này chịu tác động từ Trung Quốc nhiều hơn là nước Anh.
Quặng sắt và thép trên thị trường Trung Quốc cũng giảm giá do Brexit. Thép thanh trên sàn giao dịch Thượng Hải giảm 0,9% xuống 2.126 NDT (321 USD)/tấn, trong khi quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm 0,7% xuống 385 NDT/tấn.
Giá hai mặt hàng này chắc chắn sẽ biến động theo các yếu tố cơ bản (cung-cầu) trong 2 tháng tới. Nguồn cung từ Australia và Brazil đang rất dồi dào, khiến dự trữ sẽ tưng lên. Dự trữ quặng sắt nhập khẩu tại các cảng biển lớn của Trugn Quốc đã lên tới 100,7 triệu tấn tính tới 17/6, nhiều nhất kể từ tháng 12/2014.
Trên thị trường nông sản, ngũ cốc giảm giá bởi Brexit làm giảm nhu cầu của các nhà đầu tư. Ngô trên sàn Chicago giảm giá 2%, tính chung cả tuần mất giá tới 13% do hoạt động bán tháo khi thấy thời tiết ở các khu vực trồng ngô tốt lên. Đậu tương tăng 1,2% nhưng lúa mì giảm 1,5% trong phiên vừa qua.
Dầu cọ giảm giá tuần thứ 3 cũng do lo ngại về Brexit, với mức giảm 2,9% trong cả tuần.
Cà phê đồng loạt giảm sau phiên tăng giá trước đó. Robusta trên sàn London giảm 41-49 USD/tấn, trong khi arabica trên sàn New York giảm 4,9-5,75 cent/lb.
Nhà phân tích Brazil Safras & Mercado cho biết, tính đến thứ Ba 21/6, khoảng 41% sản lượng cà phê - dự tính đạt 56,4 triệu bao - đã được thu hoạch so với 42% cùng kỳ năm ngoái. Theo đó, 77% sản lượng Robusta và 30% sản lượng Arabica đã được thu hoạch.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá 18/6

Giá 25/6

Giá 25/6 so với 24/6

Giá 25/6 so với 24/6 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

47.98

47,64

-2,47

-4,93%

Dầu Brent

USD/thùng

49.17

48,41

-2,50

-4,91%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

30,580.00

29.550,00

+80,00

+0,27%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2.62

2,67

+0,01

+0,23%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

150.53

152,50

-7,85

-4,90%

Dầu đốt

US cent/gallon

148.17

145,53

-6,53

-4,29%

Dầu khí

USD/tấn

433.00

438,00

-14,50

-3,20%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

43,370.00

42.390,00

-100,00

-0,24%

Vàng New York

USD/ounce

1,294.80

1.322,40

+59,30

1.322,40

Vàng TOCOM

JPY/g

4,317.00

4.316,00

-7,00

4.316,00

Bạc New York

USD/ounce

17.41

17,77

-0,02

-0,11%

Bạc TOCOM

JPY/g

57.80

58,00

-0,50

-0,85%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

969.90

985,40

+19,50

+2,02%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

534.60

546,93

-18,45

-3,26%

Đồng New York

US cent/lb

205.10

211,60

-4,95

-2,29%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

4,552.00

4.698,00

-82,00

-1,72%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

1,615.00

1.617,50

-24,50

-1,49%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

1,981.00

2.018,00

-21,00

-1,03%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

17,025.00

17.150,00

-100,00

-0,58%

Ngô

US cent/bushel

442.75

389,00

-3,50

-0,89%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

494.75

465,00

-0,75

-0,16%

Lúa mạch

US cent/bushel

225.25

205,75

-4,25

-2,02%

Gạo thô

USD/cwt

11.56

11,01

-0,03

-0,27%

Đậu tương

US cent/bushel

1,148.25

1.078,50

-23,00

-2,09%

Khô đậu tương

USD/tấn

405.30

373,40

-7,60

-1,99%

Dầu đậu tương

US cent/lb

32.60

31,66

-0,80

-2,46%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

518.10

476,90

-8,30

-1,71%

Cacao Mỹ

USD/tấn

3,066.00

3.023,00

-161,00

-5,06%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

142.85

137,15

-5,75

-4,02%

Đường thô

US cent/lb

19.90

19,16

-0,03

-0,16%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

167.05

166,30

-0,90

-0,54%

Bông

US cent/lb

65.92

64,42

-1,00

-1,53%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

298.00

303,50

-7,50

-2,41%

Cao su TOCOM

JPY/kg

154.80

150,60

-1,00

-0,66%

Ethanol CME

USD/gallon

1.68

1,58

+0,01

+0,57%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg

 

 

 


Nguồn:Vinanet