menu search
Đóng menu
Đóng

Tổng kết giá hàng hóa TG tuần tới 10/11: Giá đồng loạt giảm

15:00 11/11/2023

Trong tuần qua, giá dầu, vàng, kim loại cơ bản và nông sản đều giảm
 
Năng lượng: Giá dầu giảm 4% trong tuần
Giá dầu đã tăng 2% trong phiên cuối tuần khi Iraq lên tiếng ủng hộ việc OPEC + cắt giảm sản lượng dầu trước cuộc họp sắp tới, và khi một số nhà đầu cơ đảm bảo các vị thế bán khống mạnh trước cuối tuần.
Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá giảm 4%, là tuần giảm thứ 3 liên tiếp.
Phil Flynn, nhà phân tích thuộc Price Futures Group, cho biết: “Đây là cơn bão kỹ thuật hoàn hảo. Ngay từ đầu tuần, thị trường đã xuất hiện trào lưu bán mạnh, gần như cao kỷ lục, và hiện chúng tôi đang thấy một số lệnh bán khống sẽ diễn ra vào cuối tuần”.
Ông Flynn lưu ý rằng ngoài những bình luận của Iraq, Saudi Arabia và Nga trong tuần này đã xác nhận rằng họ sẽ tiếp tục cắt giảm sản lượng dầu cho đến cuối năm.
Tại Mỹ, các công ty năng lượng đã cắt giảm số lượng giàn khoan dầu hoạt động tuần thứ hai liên tiếp xuống mức thấp nhất kể từ tháng 1/2022.
Kết thúc phiên thứ Sáu, giá dầu Brent tăng 1,42 USD, tương đương 1,8%, lên 81,43 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 1,43 USD, tương đương 1,9%, lên 77,17 USD.
Tuy nhiên, tính chung cả tuần, cả hai loại đều giảm tuần thứ ba liên tiếp - lần đầu tiên kể từ tháng 5/2023, mặc dù cả hai loại dầu này đều đã thoát khỏi vùng quá bán về mặt kỹ thuật.
Các nhà phân tích của Commerzbank cho biết: “Những lo ngại về nhu cầu đã thay thế nỗi lo ngừng sản xuất liên quan đến xung đột ở Trung Đông”.
Dữ liệu kinh tế yếu kém của Trung Quốc làm gia tăng lo ngại về nhu cầu chững lại. Các nhà máy lọc dầu ở Trung Quốc, khách hàng mua dầu thô lớn nhất từ Saudi Arabia, nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới, đã giảm mua dầu giao trong tháng 12.
Tâm lý người tiêu dùng Mỹ tháng 11 giảm tháng thứ tư liên tiếp và dự đoán lạm phát của các hộ gia đình tăng trở lại.
Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ chi nhánh San Francisco, Mary Daly, cho biết chưa sẵn sàng để nói liệu Fed có hoàn thành việc tăng lãi suất hay không. Lãi suất tăng có thể làm giảm nhu cầu dầu bằng cách làm chậm tăng trưởng kinh tế.
Tại Anh, nền kinh tế trì trệ đã không thể tăng trưởng trong khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 9 nhưng đã tránh được suy thoái, theo Văn phòng Thống kê Quốc gia Anh.
OPEC+, Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ và các đồng minh bao gồm Nga, sẽ nhóm họp vào ngày 26/11. Bộ dầu mỏ Iraq cho biết Baghdad cam kết tuân thủ thỏa thuận OPEC+ về việc xác định mức sản xuất.
Kim loại quý: Giá vàng giảm trong tuần
Giá vàng giảm hơn 1% trong phiên cuối tuần, tính chung cả tuần giảm tuần thứ 2 liên tiếp khi nhu cầu trú ẩn an toàn giảm bớt sau phát biểu từ Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, Jerome Powell.
Kết thúc phiên thứ Sáu, giá vàng giao ngay giảm 1,1% xuống 1.936,09 USD/ounce; vàng kỳ hạn 1,6% xuống 1.937,70 USD.
Tính chung cả tuần, giá vàng giảm 2,8% trong tuần, mức giảm nhiều nhất trong vòng 6 tuần. Vàng thỏi đã mất khoảng 70 USD kể từ khi chạm mức trên 2.000 USD vào tuần trước, do căng thẳng leo thang ở Trung Đông.
Giá bạc phiên thứ Sáu giảm 1,8% xuống 22,21 USD; bạch kim giảm 2% xuống còn 842,34 USD, tính chung cả tuần giảm nhiều nhất kể từ giữa năm 2021. Palladium giảm 2,8% xuống 964,25 USD. Bạch kim và palladium đều được các nhà sản xuất ô tô sử dụng trong các thiết bị nhằm giảm lượng khí thải động cơ.
Các quan chức Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, bao gồm cả Powell, hôm thứ Năm cho biết rằng họ vẫn không chắc chắn rằng lãi suất đã đủ cao để kết thúc cuộc chiến với lạm phát hay không.
Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm và chỉ số USD trải qua tuần tăng giá, khiến vàng trở nên kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư sử dụng các loại tiền tệ khác.
Jim Wyckoff, nhà phân tích cấp cao tại Kitco Metals, cho biết: “Vàng sẽ tiếp tục giao dịch đi ngang và giảm trong thời gian tới trừ khi chúng ta thấy căng thẳng địa chính trị leo thang, báo cáo kinh tế yếu kém của Mỹ hoặc nếu Fed gợi ý rằng họ đã hoàn tất việc tăng lãi suất”.
Bước vào mùa lễ hội lớn đã thúc đẩy nhu cầu vàng vật chất ở Ấn Độ, nhưng lượng mua được báo cáo là thấp hơn một chút so với năm ngoái do giá cao hơn khiến một số khách hàng nản lòng.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng và nhôm chạm mức thấp nhất hai tuần
Giá đồng và nhôm trên sàn London giảm xuống mức thấp nhất 2 tuần khi những bình luận từ Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Jerome Powell làm tiêu tan kỳ vọng về việc lãi suất đã chạm mức cao kỷ lục.
Chỉ số đô la tăng nhẹ sau khi dữ liệu cho thấy tâm lý người tiêu dùng Mỹ giảm tháng thứ tư liên tiếp. Đồng tiền mạnh của Mỹ làm cho kim loại định giá bằng đô la đắt hơn đối với người mua sử dụng các loại tiền tệ khác.
Kết thúc phiên, đồng giao sau 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 1,3% xuống 8.045 USD/tấn, sau khi chạm 8.021 USD, mức thấp nhất kể từ ngày 27/10. Giá nhôm giảm 1,2% xuống 2.216 USD/tấn, sau khi cũng chạm mức yếu nhất kể từ ngày 27/10 ở mức 2.209,5 USD. Tính chung cả tuần, giá 2 kim loại đều giảm.
Dự trữ đồng và nhôm tại các kho của LME đã tăng trở lại, dữ liệu LME hàng ngày cho thấy. Dự trữ nhôm trong các kho Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 10% trong tuần qua, nhưng tồn kho đồng giảm 14%.
Cũng trong phiên cuối tuần, giá niken giảm 3,3% lần cuối xuống 17.220 USD, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ giữa năm 2021 là 17.210 USD. Việc cắt giảm sản lượng đáng kể sẽ giúp hỗ trợ giá niken - có khả năng đã chạm đáy sau một năm trượt dốc. Giá kẽm phiên này giảm 1,9% xuống 2.554 USD, chì giảm 0,5% xuống 2.178,5 USD và thiếc giảm 1,0% xuống 24.580 USD.
Các quan chức Fed, bao gồm cả ông Powell, hôm thứ Năm đã bày tỏ sự không chắc chắn trong cuộc chiến chống lạm phát và cho biết họ sẽ thắt chặt chính sách hơn nữa nếu cần thiết.
Tuần tới, thị trường kim loại sẽ chịu ảnh hưởng bởi dữ liệu tài chính tổng hợp tháng 10 của Trung Quốc, nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới.
Trong nhóm kim loại đen, giá quặng sắt tiếp tục đà tăng tuần tăng thứ ba liên tiếp do lo ngại về nguồn cung và tiếp tục hy vọng nhu cầu cải thiện từ lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc, nước tiêu dùng thép lớn nhất thế giới, sau một loạt tín hiệu tích cực.
Phiên cuối tuần, quặng sắt giao tháng 1/2024 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc tăng 2,56% lên 961,5 nhân dân tệ (131,84 USD)/tấn, cao nhất kể từ tháng 8/2021; quặng sắt kỳ hạn tháng 12/2023 trên Sàn giao dịch Singapore tăng 1,54% lên mức 127,1 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 21/3.
Trên sàn giao dịch Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,65%, thép cuộn cán nóng tăng 0,91% và thanh thép tăng 0,55%. Thép không gỉ giảm 0,41%.
Nhà cung cấp quặng sắt lớn Vale cho biết đã xảy ra một vụ hỏa hoạn trên một đoàn tàu chở hàng ở bang Maranhao của Brazil, làm dấy lên lo ngại về rủi ro nguồn cung, mặc dù công ty khai thác này cho biết dự kiến sẽ không có tác động nào đến sản lượng hàng quý.

Nông sản: Giá ngũ cốc giảm trong tuần

Giá ngô Mỹ đã giảm tuần thứ 3 liên tiếp sau khi báo cáo của chính phủ dự báo sản lượng năm nay sẽ cao kỷ lục. Giá lúa mì cũng giảm do các quỹ hàng hóa bán ròng khối lượng lớn, trong khi đó, giá đậu tương tăng nhờ hoạt động mua kỹ thuật.
Kết thúc phiên này trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 4 cent xuống 4,64 USD/bushel. Tính chung cả tuần, hợp đồng này giảm 15-1/2 cent/bushel, tương đương gần 2,8%.
Giá lúa mì đỏ mềm vụ đông kỳ hạn tháng 12 của CBOT giảm 5-1/2 cent xuống 5,75-1/4 USD/bushel. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 1/2024 tăng 4 cent lên 13,47-1/2 USD/bushel.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) trong báo cáo tháng 11 đã nâng ước tính vụ ngô niên vụ 2023-24 của nước này lên 15,234 tỷ bushel, từ mức 15,064 tỷ giạ trong tháng 10.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3 phiên cuối tuần giảm 0,49 cent, tương đương 1,8%, xuống 27,29 cent/lb, kéo dài sự sụt giảm của thị trường từ mức cao nhất 12 năm là 28,14 cent được thiết lập vào thứ Ba. Đường trắng kỳ hạn tháng 12 giảm 9,30 USD, tương đương 1,2%, xuống 747,30 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá đường cũng giảm.
Tập đoàn công nghiệp đường Brazil UNICA đưa tin sản lượng đường ở trung nam Brazil trong nửa cuối tháng 10 đạt tổng cộng 2,35 triệu tấn, tăng 9,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Con số này phù hợp với kết quả khảo sát của S&P Global Commodity Insights.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3 giảm 3,65 cent, tương đương 2,1%, ở mức 1,7055 USD/lb, cà phê Robusta kỳ hạn tháng 1 giảm 9 USD, tương đương 0,4%, xuống 2.421 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá cà phê cũng giảm.
Các đại lý cho biết nguồn cung thắt chặt trong ngắn hạn đang tiếp tục dẫn đến sự sụt giảm lượng dự trữ. Tồn kho trên sàn giao dịch được ICE chứng nhận đã giảm xuống còn 302.235 bao vào thứ Năm, mức thấp nhất trong ít nhất 24 năm.
Đối với mặt hàng cao su, giá cao su kỳ hạn tại Nhật Bản tăng lên mức cao nhất trong 2 tuần do đồng Yên yếu hơn, mặc dù các chỉ số cho thấy giảm phát ở Trung Quốc đã hạn chế mức tăng.
Hợp đồng cao su giao tháng 4/2024 trên sàn giao dịch Osaka (OSE) tăng 1,8 yên, tương đương 0,7%, lên mức 264,3 yên (1,75 USD)/kg. Tính chung cả tuần, giá tăng 2,1%, mức tăng hàng tuần mạnh nhất kể từ tuần kết thúc vào ngày 13/10/2023.
Hợp đồng cao su giao tháng 1/2024 trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải tăng 125 CNY, tương đương 0,9%, lên mức 14.275 CNY(1.958,43 USD)/tấn. Hợp đồng cao su giao tháng 12/2023 tại sở giao dịch SICOM tăng 0,2% lên 148,2 US cent/kg.
Chỉ số Nikkei trung bình của Nhật Bản đóng cửa phiên thứ Sáu giảm 0,24%.
Đồng nhân dân tệ của Trung Quốc suy yếu xuống mức thấp nhất trong một tuần do đồng đô la tăng giá và thị trường ngày càng kỳ vọng về việc nới lỏng tiền tệ sắp xảy ra.
Đồng yên Nhật không thay đổi nhưng ở mức thấp nhất trong một năm, 151,38 yên mỗi đô la.
Giới đầu tư coi ngưỡng 150 là cơ hội tiềm tàng để chính quyền Nhật Bản can thiệp vào thị trường tiền tệ. Đồng yên yếu khiến tài sản bằng đồng yên trở nên dễ mua hơn đối với người mua nắm giữ ngoại tệ.
Giá tiêu dùng của Trung Quốc giảm trong tháng 10 do các thước đo chính về nhu cầu trong nước chỉ ra sự yếu kém chưa từng thấy kể từ đại dịch, trong khi giảm phát tại nhà máy ngày càng sâu sắc, gây nghi ngờ về triển vọng phục hồi.

Giá hàng hóa thế giới:

ĐVT

Giá 3/11

Giá 10/11

10/11 so với 9/11

10/11 so với 9/11 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

81,12

77,17

+1,43

+1,89%

Dầu Brent

USD/thùng

85,38

81,43

+1,42

+1,77%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

82.040,00

78.750,00

+550,00

+0,70%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

3,39

3,03

-0,01

-0,26%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

220,55

218,95

+2,87

+1,33%

Dầu đốt

US cent/gallon

292,69

274,31

+2,40

+0,88%

Dầu khí

USD/tấn

879,00

791,50

+6,25

+0,80%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

77.000,00

78.000,00

+1.000,00

+1,30%

Vàng New York

USD/ounce

1.998,50

1.937,70

-32,10

-1,63%

Vàng TOCOM

JPY/g

9.575,00

9.427,00

-92,00

-0,97%

Bạc New York

USD/ounce

23,33

22,28

-0,62

-2,72%

Bạc TOCOM

JPY/g

111,30

110,50

0,00

0,00%

Bạch kim

USD/ounce

933,48

845,83

-17,37

-2,01%

Palađi

USD/ounce

1.122,75

961,77

-32,11

-3,23%

Đồng New York

US cent/lb

368,85

358,70

-5,35

-1,47%

Đồng LME

USD/tấn

8.175,50

8.035,50

-111,50

-1,37%

Nhôm LME

USD/tấn

2.254,00

2.215,00

-27,50

-1,23%

Kẽm LME

USD/tấn

2.524,50

2.562,00

-40,50

-1,56%

Thiếc LME

USD/tấn

24.356,00

24.603,00

-236,00

-0,95%

Ngô

US cent/bushel

477,50

464,00

-4,00

-0,85%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

569,00

575,25

-5,50

-0,95%

Lúa mạch

US cent/bushel

373,00

346,75

+13,75

+4,13%

Gạo thô

USD/cwt

15,83

16,74

+0,23

+1,36%

Đậu tương

US cent/bushel

1.355,75

1.347,50

+4,00

+0,30%

Khô đậu tương

USD/tấn

442,60

434,90

-1,30

-0,30%

Dầu đậu tương

US cent/lb

49,54

50,55

+0,78

+1,57%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

694,00

701,10

+14,00

+2,04%

Cacao Mỹ

USD/tấn

3.898,00

4.014,00

+42,00

+1,06%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

170,90

170,55

-3,65

-2,10%

Đường thô

US cent/lb

27,77

27,29

-0,49

-1,76%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

349,25

371,65

+2,50

+0,68%

Bông

US cent/lb

79,90

79,50

+0,29

+0,37%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

--

--

--

--

Cao su TOCOM

JPY/kg

144,90

146,60

-0,60

-0,41%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

2,16

0,00

0,00%

 

Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)

Tags: hàng hóa