menu search
Đóng menu
Đóng

FAO: Tác động của COVID-19 đối với chuỗi cung ứng thủy sản

08:19 24/04/2020

Vinanet - Đại dịch COVID-19 đã gây ra một cuộc khủng hoảng sức khỏe cộng đồng, sau đó là một cuộc khủng hoảng kinh tế đang diễn ra do các biện pháp mà các quốc gia áp dụng để ngăn chặn tỷ lệ lây nhiễm, như cách ly tại nhà, cấm đi lại và đóng cửa kinh doanh, trong số các quốc gia khác.
Ngành thủy sản rủi ro, nhưng ăn thủy sản vẫn an toàn
Đại dịch COVID-19 đã gây ra một cuộc khủng hoảng sức khỏe cộng đồng, sau đó là một cuộc khủng hoảng kinh tế đang diễn ra do các biện pháp mà các quốc gia áp dụng để ngăn chặn tỷ lệ lây nhiễm, như cách ly tại nhà, cấm đi lại và đóng cửa kinh doanh, trong số các quốc gia khác. Mặc dù các doanh nghiệp bán lẻ thực phẩm, như siêu thị, cửa hàng tạp hóa và cửa hàng tiện lợi và nhà hàng mang đi được coi là thiết yếu và vẫn phải duy trì hoạt động, các biện pháp để ngăn chặn sự bùng phát COVID-19 đã tạo ra một môi trường mà thực phẩm trở nên khó khăn hơn.
Mặc dù COVID-19 không ảnh hưởng đến thủy sản, ngành thủy sản vẫn chịu tác động gián tiếp của đại dịch vì sự thay đổi nhu cầu của người tiêu dùng, tiếp cận thị trường hoặc các vấn đề hậu cần liên quan đến vận chuyển và hạn chế biên giới. Điều này sẽ ảnh hưởng xấu đến sinh kế của nông,ngư dân, cũng như an ninh lương thực và dinh dưỡng cho dân cư sống phụ thuộc nhiều vào protein động vật và các vi chất dinh dưỡng thiết yếu từ thủy sản.
Đồng thời, nhận thức sai lệch ở một số quốc gia cũng dẫn đến việc tiêu thụ thủy hải sản giảm, dẫn đến giá các sản phẩm thủy sản giảm. Điều này nhấn mạnh sự cần thiết phải truyền thông rõ ràng về cách thức lây truyền của virus là nó không liên quan đến thủy hải sản.
Từng khâu trong chuỗi cung ứng thủy sản phải được bảo vệ
Toàn bộ các hoạt động cần thiết để cung cấp các sản phẩm thủy sản từ sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng là phức tạp. Trên toàn cầu, các công nghệ được sử dụng khác nhau từ thủ công đến công nghiệp cao. Chuỗi giá trị bao gồm thị trường địa phương, khu vực và toàn cầu. Các hoạt động chính trong chuỗi cung ứng thủy sản là đánh bắt, sản xuất nuôi trồng thủy sản, chế biến, vận chuyển và tiếp thị bán buôn và bán lẻ. Mỗi liên kết trong chuỗi dễ bị phá vỡ hoặc ngừng lại do tác động phát sinh từ COVID-19. Nếu một trong những liên kết của người sản xuất – người mua – người bán này bị phá vỡ bởi dịch hoặc các biện pháp ngăn chặn dịch, thì kết quả sẽ là một chuỗi các sự gián đoạn ảnh hưởng đến nền kinh tế của ngành. Kết quả mong muốn, tiêu thụ các sản phẩm thủy sản làm thực phẩm, chỉ có thể đạt được bằng cách bảo vệ các liên kết giữa người sản xuất - người mua – người bán và từng khâu của chuỗi cung ứng. Do đó, điều cần thiết là từng khâu trong chuỗi thủy sản thực phẩm phải được bảo vệ.
1. Hoạt động đánh bắt giảm hoặc ngưng trệ do nhu cầu và giá giảm
Thực tế hoạt động đánh bắt thúy sản giảm ở một số vùng của Châu Phi, Châu Á và Châu Âu vì một số lý do. Ví dụ: các đội tàu phụ thuộc nhiều vào thị trường xuất khẩu (ví dụ: Vương quốc Anh và Bắc Ireland và Ireland) và các loài có giá trị cao hơn (ví dụ: tôm hùm) có khả năng bị ảnh hưởng đặc biệt. Các biện pháp vệ sinh (khoảng cách vật lý giữa các thành viên phi hành đoàn trên biển, mặt nạ, v.v.) cũng có thể làm cho việc đánh bắt trở nên khó khăn và có thể dẫn đến phải ngừng hoặc giảm hoạt động. Nguồn cung hạn chế (ví dụ: nước đá, thiết bị, mồi) do các nhà cung cấp bị đóng cửa hoặc không thể cung cấp đầu vào tín dụng, cũng hạn chế các hoạt động đánh bắt cá. Thiếu lao động là một vấn đề khác vì một số thuyền viên bao gồm những người lao động nhập cư không thể ra khỏi biên giới nước mình. Ngoài ra, không đủ thiết bị để đảm bảo an toàn sức khỏe cho thuyền viên, trách nhiệm của chủ tàu trong hoạt động khai thác trở lại, điều kiện để được hỗ trợ của thủy thủ như thất nghiệp một phần, đóng cửa tạm thời, hệ thống hỗ trợ sẵn sàng để duy trì hoạt động chính và khả năng tương thích giữa các cơ chế hỗ trợ (kinh tế và khác) đều có thể ảnh hưởng đến mức độ đánh bắt hiện tại.
Các biện pháp bảo vệ sản xuất và thu nhập bao gồm:
- Xác định ngư dân và thuyền viên là "nhân lực quan trọng" vì họ cung cấp thực phẩm cho quốc gia;
- Cấp thị thực cho lao động tạm thời, thời vụ và nước ngoài để thu hoạch hải sản;
- Liên kết các trung tâm hoặc làng chài với các dịch vụ như nhà bếp cộng đồng địa phương trong khu vực, nơi các loại cá nhỏ hơn (cá mòi, cá thu, cá cơm) có thể dễ dàng được chiên và được cung cấp ở đó với giá cố định, nếu có thể;
- Mở rộng việc mua hải sản của chính phủ để sử dụng cho các tổ chức (nhà tù, bệnh viện, chương trình cho ăn ở trường, v.v.) cũng như để phân phối như hỗ trợ thực phẩm; - kéo dài vụ khai thác để bù đắp tổn thất kinh tế;
- Đền bù cho các chủ tàu và thuyền viên bị cấm đánh bắt; hạn chế mức độ đánh bắt hiện đang thực hiện (bằng cách thiết lập hạn ngạch minh bạch) để phù hợp với nhu cầu hiện tại, trong khi đảm bảo an ninh lương thực địa phương không bị ảnh hưởng tiêu cực;
- Các cơ quan quản lý nhà nước đặt giá sàn tối thiểu cho mỗi loài cá quan trọng, nếu có thể.
2. Tác động đối với sản lượng nuôi trồng thủy sản: tương lai không ổn định
Ảnh hưởng đến sản xuất nuôi trồng thủy sản sẽ khác nhau. Do sự gián đoạn của thị trường, người nuôi cá không thể bán cá đến độ thu hoạch của họ và họ phải giữ lại một lượng lớn cá sống và cần nuôi ăn trong một thời gian không xác định. Điều này làm tăng chi phí, chi tiêu và rủi ro. Một số loài được nuôi để xuất khẩu (ví dụ cá tra) đã bị ảnh hưởng bởi việc đóng cửa thị trường quốc tế (Trung Quốc, EU) . Nuôi thủy sản có vỏ (ví dụ như hàu) bị ảnh hưởng chủ yếu do đóng cửa dịch vụ thực phẩm (ví dụ như du lịch, khách sạn và nhà hàng) và các nhà bán lẻ (EU). Ngoài ra, do một loạt các hạn chế của các quốc gia đối với việc di chuyển hàng hóa và thông quan sân bay, v.v., các nhà điều hành trại giống và thương gia tôm bố mẹ có thể gặp khó khăn trong việc giao dịch tôm bố mẹ để sản xuất giống, có thể gây ra sự sụt giảm mạnh trong sản xuất. Mặt khác, nuôi trồng thủy sản quy mô nhỏ có thể được hưởng lợi từ việc giảm cạnh tranh với nhập khẩu cá. Năng lực sản xuất nuôi trồng thủy sản cũng có thể bị ảnh hưởng bởi những khó khăn trong việc tìm nguồn cung ứng đầu vào (giống và thức ăn) và tìm kiếm lao động do lệnh phong tỏa.
Các biện pháp để duy trì hoạt động bao gồm:
- Công bố ngành nuôi trồng thủy sản phải ngang bằng với ngành nông nghiệp trong cơ chế ưu tiên cho vay vốn, bảo hiểm mùa màng, giá điện và các loại thuế khác;
- Cho người nuôi cá tăng khả năng tiếp cận các chương trình tín dụng và tài chính vi mô với lãi suất giảm, trả nợ linh hoạt và các lựa chọn để cơ cấu lại các khoản vay và thời hạn thanh toán liên quan;
- Có các chương trình bù đắp tổn thất sản xuất và thu nhập để duy trì chuỗi cung ứng thủy sản trong nước và đảm bảo hoạt động liên tục;
- Xóa nợ cho các khoản vay được sử dụng để duy trì trả lương, và các khoản vay lãi suất thấp để tái cấp vốn nợ hiện có;
- Giảm các khoản thanh toán, tức là tạm dừng một số nghĩa vụ tài chính như tiện ích, thuế bất động sản và các khoản thế chấp; và
- Giảm tốc độ sản xuất khi nhu cầu giảm hoặc khả năng tiếp cận thị trường giảm, đặc biệt nếu xuất khẩu vẫn chậm và lao động nông nghiệp bị mất.
3. Các nhà máy chế biến, thị trường và thương mại đang thích ứng với sự thay đổi của nhu cầu
Ngành thủy sản đặc biệt phụ thuộc vào lĩnh vực dịch vụ thực phẩm, và do đó bị ảnh hưởng nhiều bởi những thay đổi trong dịch vụ thực phẩm. Khi các quốc gia thực hiện các biện pháp phong tỏa, nhà hàng, khách sạn, trường học, trường đại học và căng tin đóng cửa, ảnh hưởng hoạt động của nhiều nhà bán buôn thủy sản và không có cửa hàng để bán một số loài cá tươi có giá trị cao. Cơn hoảng loạn mua thực phẩm dự trữ có lợi cho việc bán cá và thủy sản đóng gói, đông lạnh hoặc đóng hộp, nhưng có thể không đủ để cung cấp cho thị trường nếu không có nguyên liệu thô, và vì các vấn đề hậu cần khác. Đặc biệt, khi các quốc gia đang đóng cửa biên giới, có thể có sự chậm trễ tại các cửa khẩu biên giới và các chuyến bay có thể bị hủy, ảnh hưởng đến thương mại hàng hóa và chi phí vận chuyển có thể tăng đáng kể. Hạn chế về tiếp cận thị trường và nhu cầu giảm dẫn đến các sản phẩm thủy sản phải lưu kho lâu hơn. Điều này dẫn đến tổn thất và lãng phí thực phẩm do thay đổi chất lượng cũng như tăng chi phí cho các nhà chế biến, xuất khẩu, nhập khẩu và thương nhân. Đồng thời, tình huống chưa từng có này đang tạo ra các hoạt động đổi mới đầy hứa hẹn có thể ảnh hưởng đến cách thức hoạt động của ngành trong tương lai.
Các biện pháp hỗ trợ chuỗi cung ứng bao gồm:
-Ttrong lĩnh vực thương mại quốc tế, trong nỗ lực chung nhằm đảm bảo dòng chảy thương mại tiếp tục được tự do nhất có thể, FAO, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) kêu gọi phòng ngừa về các hạn chế biên giới đối với thương mại thực phẩm để tránh tình trạng thiếu lương thực, nhấn mạnh rằng việc phổ biến thông tin về các biện pháp thương mại liên quan đến thực phẩm là cơ bản;
- Đảm bảo tiếp cận chuỗi cung ứng và cho các hoạt động khai thác và bán sản phẩm của họ ra nước ngoài, đảm bảo việc tiếp cận và hợp tác liên tục của các quan chức tại các cảng, đường sắt và biên giới để họ có thể duy trì doanh số bán hàng của họ;
- Đảm bảo sự ổn định của việc tiếp cận nghề cá bằng cách giảm bớt gánh nặng pháp lý không cần thiết đang cản trở việc tiếp cận và thu hoạch bền vững từ ngư trường;
- Tiếp tục hỗ trợ cho chuỗi cung ứng (ví dụ: sử dụng kho thủy sản tạm thời, chuyển sang phân khúc thị trường trong nước, phối hợp với các nhà chế biến để điều chỉnh nguồn cung cho thị trường trong nước và thay thế sản phẩm đã chuẩn bị trước đó cho thị trường xuất khẩu);
- Chế biến cá vẫn chưa tiêu thụ được (ví dụ: muối hoặc trữ trong nước đá khi thích hợp, đòi hỏi phải cung cấp hộp cá cách nhiệt cỡ trung bình được cung cấp bởi các cơ quan quản lý;
- Khai thác khả năng sản xuất thủy sản cấp đông với các công ty chế biến, làm lạnh và phân phối thủy sản;
- Tiếp thị trực tiếp đến người tiêu dùng như một cách tiếp cận mới quan trọng đối với một số doanh nghiệp; và
- Sử dụng các chiến lược tiếp thị thay thế để giúp giảm bớt nhu cầu lưu kho lâu dài.
4. Các vấn đề về điều kiện làm việc trong chuỗi giá trị
Các điều kiện làm việc và an toàn của ngư dân trên biển sẽ bị ảnh hưởng nếu số lượng ngư dân làm thuyền viên bị giảm. Thuyền viên trên các tàu công nghiệp quy mô lớn (tàu lưới vây, lưới rê) đang hoạt động trong vài tuần và sau đó thay thế trong khi họ nghỉ ngơi, không thể đi về nhà do hạn chế chuyến bay và thời gian cách ly. Do đó, họ có thể phải làm việc trong thời gian dài hơn trên tàu, điều này làm tăng sự mệt mỏi, căng thẳng (cũng là về sức khỏe của các thành viên trong gia đình) và có khả năng xảy ra tai nạn trên tàu. Các tàu cá quy mô lớn của các đội tàu đánh cá xa bờ cũng có thể phải đối mặt với các trường hợp mắc COVID-19 trong các thành viên thủy thủ của họ khi ở ngoài biển. Vi-rút có thể lây lan nhanh chóng trong tất cả các thuyền viên của tàu và hỗ trợ y tế dường như không có sẵn. Khi cố gắng vào một cảng, thuyền viên không thuộc Quốc gia có cảng có thể không được phép vào nước này. Ngoài ra, nhiều thuyền viên, giống như những người nuôi quy mô nhỏ, là tự làm chủ và không đủ điều kiện để hưởng chế độ thất nghiệp hoặc nghỉ có lương.
Với hành vi di cư của nhiều ngư dân, cộng với khách quốc tế thường xuyên đến các cộng đồng ngư dân (ví dụ: các phong trào xuyên biên giới), có khả năng các cộng đồng ngư dân trở thành "điểm nóng" cho sự lây lan nhanh chóng của virus. Hạn chế di chuyển có thể ảnh hưởng đến khu vực khai thác bằng cách ngăn chặn ngư dân tiến hành các hoạt động của họ, và cả khu vực sau thu hoạch, nơi phụ nữ chủ yếu phụ trách các hoạt động chế biến và thương mại. Trong trường hợp các biện pháp hạn chế chưa được áp dụng tại chờ, các nhà cung cấp cá cho phụ nữ có thể gặp rủi ro nhiễm bệnh cao hơn vì tại chợ số lượng người đông và khó giữ khoảng cách vật lý. Nguy cơ còn cao hơn nếu thiếu các thiết bị vệ sinh dịch tễ. Ngành nghề có nhiều lao động tự do này tạo thành một rào cản cho nôgn ngư dân tiếp cận chính sách bảo vệ của thị trường lao động và các cơ chế bảo trợ xã hội đóng góp. Những điều này có thể làm trầm trọng thêm các tác động thứ cấp của COVID-19, bao gồm cả nghèo đói.
Các biện pháp bảo vệ người dễ bị ảnh hưởng nhất bao gồm:
- Bảo an toàn bằng cách chỉ cho phép các tàu có đầy đủ thuyền viên rời bến để thực hiện các hoạt động đánh bắt cá;
- Cải thiện vệ sinh dịch tễ trong chợ cá trong giai đoạn cứu trợ / phục hồi; cung cấp lương và hỗ trợ thất nghiệp cho thuyền viên và người nuôi cá quy mô nhỏ tự làm chủ;
- Hỗ trợ những người dễ bị ảnh hưởng nhất bằng tiền mặt và chuyển bằng hiện vật của các tổ chức địa phương (nơi không có các chương trình bảo trợ xã hội quốc gia);
- Điều chỉnh thiết kế chương trình (lịch giao hàng, mức lợi ích) và các điều kiện thư giãn (ví dụ miễn trừ đóng góp) để đảm bảo bảo hiểm đầy đủ và rộng hơn cho ngành thủy sản, bao gồm cả lao động phi chính thức, nơi hỗ trợ xã hội (chuyển tiền và hiện vật) hoặc chương trình bảo hiểm xã hội tồn tại; và
- Hỗ trợ phối hợp giữa các tổ chức, thông qua trao đổi thông tin dữ liệu giữa các cơ quan có trách nhiệm phát triển và quản lý nghề cá để đảm bảo ngư dân được quan tâm đầy đủ bằng cách phát triển xã hội và hồi hương.
5. Quản lý và ý nghĩa chính sách
Mặc dù việc đóng cửa các hoạt động đánh bắt sẽ mang lại thời gian nghỉ ngơi cho một số nguồn lợi thủy sản bị khai thác quá mức, những hạn chế tương tự được áp dụng cho khoa học và quản lý các hoạt động hỗ trợ. Ví dụ, các cuộc điều tra đánh giá thủy sản có thể bị giảm hoặc hoãn, các chương trình quan sát nghề cá bắt buộc có thể bị đình chỉ tạm thời, và hoãn các cuộc họp khoa học và quản lý, trì hoãn cả việc thực hiện một số biện pháp cần thiết và giám sát các biện pháp quản lý. Sự sụp đổ của thị trường xuất khẩu đã làm tăng khả năng tái cung cấp thủy sản từ các nhà sản xuất địa phương. Tuy nhiên, thị trường nội địa của một số quốc gia còn nhỏ hoặc không tồn tại, và đội tàu đánh cá quốc gia có thể vượt quá khả năng cho thị trường nội địa. Việc phong tỏa có thể dẫn đến giảm công suất tại Trung tâm giám sát nghề cá (FMC) như trường hợp ở Tây Phi trong vụ dịch Ebola 2013-2016, nơi không chỉ thiếu nhân viên, mà các nguồn lực quốc gia hạn chế được chuyển sang tài trợ cho các hoạt động khẩn cấp khiến FMCS không thể oạt động hiệu quả. Những ngư dân biết điều này và có thể tiếp tục vận hành hoặc điều chỉnh hoạt động của họ để hưởng lợi từ những thiếu sót của Kiểm tra, Kiểm soát và Giám sát để tham gia vào các hoạt động bất hợp pháp. Việc thiếu giám sát và quản lý nguồn lợi chung có thể khuyến khích một số quốc gia đánh bắt trong nguồn lợi chung này trở nên ít trách nhiệm hơn trong việc quản lý, giám sát và kiểm soát hoạt động đánh bắt cá.
Các biện pháp bao gồm:
- Khi có thể, tăng cường các chương trình giám sát từ xa và không quan sát viên (máy ảnh, sổ nhật ký, hệ thống báo cáo điện tử);
- Duy trì mức độ theo dõi, kiểm soát và giám sát các hoạt động đánh bắt để đảm bảo các biện pháp kiểm soát được thi hành và rủi ro trên các tàu cá, đặc biệt là các hoạt động đánh bắt bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định, không tăng lên; và
- Chính phủ thực hiện đánh giá và xác định các giải pháp cụ thể trong quan hệ đối tác với các tác nhân trong ngành.

Nguồn:Vasep.com.vn

Link gốc