Tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, thị trường lúa gạo tiếp tục ghi nhận những diễn biến không đồng nhất. Trong khi lượng giao dịch ở mức thấp, giá gạo trong nước tương đối ổn định thì một số mặt hàng gạo nguyên liệu phục vụ xuất khẩu và lúa tươi lại có biến động trái chiều so với ngày hôm qua và đầu tuần.
Theo thông tin từ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang, giá lúa Nàng Hoa 9 hiện tăng 200 đồng/kg, dao động trong khoảng 6.000 - 6.200 đồng/kg. Ngược lại, giá lúa OM 18 (tươi) giảm 100 đồng/kg, hiện ở mức 6.000 - 6.100 đồng/kg. Lúa Đài Thơm 8 (tươi) giữ giá ổn định ở mức 6.100 - 6.200 đồng/kg. Một số loại lúa khác như OM 308 dao động 5.700 - 5.900 đồng/kg, IR 50404 từ 5.600 - 5.800 đồng/kg, và OM 5451 trong khoảng 5.800 - 6.000 đồng/kg.
Tình hình giao dịch tại các địa phương có sự khác biệt rõ nét. Tại Tây Ninh mới (trước đây là Long An cũ), nông dân chào giá lúa OM18 và 5451 tăng nhẹ, giao dịch bắt đầu khởi sắc. Trong khi đó, tại Kiên Giang cũ (nay thuộc An Giang), hoạt động thu hoạch diễn ra lác đác, giao dịch mua bán trì trệ, giá gần như không biến động. Tại Hậu Giang (trước đây là Cần Thơ), thương lái mua chậm, giá lúa giữ ở mức ổn định. Ở An Giang, nông dân có xu hướng neo giá bán cao, trong khi thương lái chỉ hỏi mua rải rác. Tại Đồng Tháp, nguồn cung từ nông dân khá nhiều, song sức mua chậm, giá nhìn chung vẫn ổn định.
Đối với mặt hàng gạo, cập nhật cho thấy gạo nguyên liệu OM 18 tăng nhẹ 100 đồng/kg, lên mức 9.600 - 9.700 đồng/kg. Gạo nguyên liệu IR 504 giảm 100 đồng/kg, dao động 7.600 - 7.700 đồng/kg. Các loại gạo khác như CL 555 dao động 8.300 - 8.400 đồng/kg, OM 380 từ 7.850 - 7.900 đồng/kg, gạo 5451 từ 9.100 - 9.150 đồng/kg. Gạo thành phẩm OM 380 hiện ở mức 8.800 - 9.000 đồng/kg, trong khi IR 504 dao động từ 9.500 - 9.700 đồng/kg.
Giá phụ phẩm từ chế biến gạo dao động trong khoảng 7.300 - 10.000 đồng/kg. Tấm thơm được bán với giá từ 7.300 - 7.400 đồng/kg, còn giá cám ở mức 8.000 - 9.000 đồng/kg.
Tại các địa phương, lượng gạo về kho tiếp tục duy trì ở mức thấp, các doanh nghiệp thu mua rải rác tùy loại. Tại An Giang, hoạt động thu mua diễn ra chậm, giá giữ ổn định. Khu vực Lấp Vò (Đồng Tháp) cũng ghi nhận nguồn cung ít, giá không biến động nhiều. Tại Sa Đéc, lượng hàng về lai rai, giao dịch vẫn chậm, giá duy trì ổn định. Kênh chợ Sa Đéc ghi nhận nguồn gạo ngang dồi dào hơn, trong khi gạo thơm về ít, các kho mua đều đặn và giữ giá ổn định. Ở khu vực An Cư - Đồng Tháp mới (trước đây là Cái Bè, Tiền Giang), lượng hàng về không nhiều, giao dịch ảm đạm, giá không biến động đáng kể.
Tại các chợ lẻ, giá các loại gạo nhìn chung không thay đổi so với hôm qua. Gạo Nàng Nhen có giá cao nhất, lên tới 28.000 đồng/kg. Gạo Hương Lài hiện ở mức 22.000 đồng/kg; gạo thường dao động trong khoảng 13.000 - 14.000 đồng/kg. Các loại gạo thơm như Thái hạt dài, Nàng Hoa, Đài Loan, Jasmine, Sóc Thái và Nhật có giá dao động từ 16.000 - 22.000 đồng/kg.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo Việt Nam giữ ổn định so với phiên giao dịch trước. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), giá gạo 5% tấm đang ở mức 382 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 357 USD/tấn và gạo 100% tấm ở mức 317 USD/tấn.
Nguồn:Vinanet/VITIC