Trước đây, Trung Quốc nhập khẩu gạo chủ yếu từ Việt Nam và Thái Lan, song kể từ 2014, phần lớn lượng gạo nhập khẩu tăng đến từ Myanmar và Pakistan. Cuối năm 2020, Trung Quốc đã cho phép Ấn Độ xuất khẩu gạo non-basmati vào thị trường này và từ đó Ấn Độ nhanh chóng trở thành một trong những nhà cung cấp gạo hàng đầu của Trung Quốc. Giá gạo hạt dài của Ấn Độ rẻ hơn 25% so với gạo nội địa của Trung Quốc.
Phần lớn gạo nhập khẩu của Trung Quốc là gạo hạt dài. Giá gạo hạt dài ở Trung Quốc đã tăng gần 20% kể từ giữa năm 2020. Các nhà cung cấp Nam Á có mức giá thấp hơn đáng kể so với giá trong nước. Điều đó lý giải cho việc Trung Quốc tăng nhập khẩu gạo hạt dài trong thời gian gần qua. Gần đây, tốc độ bán đấu giá gạo hạt dài dự trữ từ kho của Chính phủ đã giảm dần. Do đó, dự kiến Trung Quốc sẽ tiếp tục nhập khẩu nhiều gạo hạt dài và gạo tấm, trong khi nhập khẩu gạo hạt vừa dự báo sẽ tiếp tục giảm.
Trung Quốc có tổng hạn ngạch thuế quan đối với gạo (TRQ) là 5,32 triệu tấn, được chia đều cho hạt dài, hạt trung bình và hạt ngắn. Trong khi Trung Quốc thường xuyên lấp đầy hạn ngạch gạo hạt dài, thì hạn ngạch gạo hạt vừa mấy năm gần đây thường không được sử dụng hết. Nhập khẩu từ Nam Á, bao gồm Pakistan và Ấn Độ, gần như hoàn toàn là loại hạt dài và một lượng đáng kể gạo tấm. Myanmar chủ yếu cung cấp gạo hạt dài cho Trung Quốc, nhưng cũng xuất khẩu cả hạt vừa và ngắn sang thị trường này. Ngoài Myanmar, Trung Quốc đại lục chỉ nhập khẩu một lượng tương đối nhỏ gạo hạt vừa và ngắn từ lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc), Pakistan và Thái Lan.
Trong báo cáo tháng 7/2021, USDA đã nâng 20% mức dự báo về nhập khẩu gạo của Trung Quốc trong năm 2021, lên 3,8 triệu tấn.
|
Những thay đổi về nhập khẩu và giá gạo của Trung Quốc
|
Nguồn:VITIC / USDA