Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng trong bối cảnh đồng USD suy yếu.
Tại thị trường New York, giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng Hai tới tăng 1,43 USD lên 52,25 USD/thùng, trong khi giá dầu Brent giao tháng Ba tới cũng tăng 1,46 USD lên 55,10 USD/thùng tại London.
Trong khi đó, thông tin Saudi Arabia sẽ cắt giảm nguồn cung dầu mỏ xuất sang khu vực châu Á vào tháng Hai tới cũng thúc đẩy thị trường năng lượng.
Trong báo cáo "Triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2017" vừa công bố, Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo rằng giá của cả ba loại dầu gồm dầu Dubai, dầu Brent Biển Bắc và dầu thô ngọt nhẹ (WTI) trong năm nay sẽ tăng trung bình 35,2% so với năm ngoái.
Trong các năm 2018 và 2019, đà tăng của giá dầu có thể vẫn được duy trì với mức tăng lần lượt là 8,4% và 4,6%.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao nhất 7 tuần cũng bởi USD và lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ đều giảm sau khi Tổng thống đắc cử Donald Trump có cuộc họp báo chính thức đầu tiên trước khi nhậm chức.
Giá vàng giao ngay tăng 0,4% lên 1.192,61 USD/ounce, sau khi được giao dịch trong biên độ 1.176,94-1.198,40 USD/ounce, mức cao nhất kể từ ngày 23/11/2016, vàng giao tháng Hai cũng tăng 11,1 USD (0,94%) lên 1.196,6 USD/ounce.
Theo ông Tai Wong, Giám đốc phụ trách giao dịch kim loại cơ bản và kim loại quý của BMO Capital Markets tại New York, vào thời điểm xuống giá thấp nhất trong phiên thì vàng đã nhận được cú hích cần thiết từ “hiệu ứng" Donald Trump khi những phát biểu của Tổng thống đắc cử Mỹ trong cuộc họp báo chính thức đầu tiên khiến hoạt động bán cổ phiếu và đồng USD được đẩy lên.
Trong khi đó, giới phân tích cho rằng các cuộc bầu cử diễn ra trong năm nay tại Pháp, Hà Lan và Đức có thể dẫn tới tình trạng căng thẳng ở Liên minh châu Âu (EU) và hỗ trợ giá vàng.
Theo nhà phân tích Peter Fertig của Quantitative Commodity Research, những bất ổn xung quanh việc nước Anh rời khỏi EU có thể dẫn tới nhu cầu đối với vàng của các nhà đầu tư nhỏ lẻ gia tăng ở Vương quốc Anh.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
52,25
|
+1,43
|
+0,17%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
55,10
|
+1,46
|
+0,09%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
38.940,00
|
+630,00
|
+1,64%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,31
|
+0,09
|
+2,64%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
159,49
|
+0,20
|
+0,13%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
165,46
|
+0,22
|
+0,13%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
487,75
|
+0,75
|
+0,15%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
47.850,00
|
+640,00
|
+1,36%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.194,80
|
+1,80
|
+0,15%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.400,00
|
-7,00
|
-0,16%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,86
|
+0,03
|
+0,16%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
61,80
|
-0,60
|
-0,96%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
980,25
|
+8,10
|
+0,83%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
755,33
|
-0,32
|
-0,04%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
261,70
|
+0,65
|
+0,25%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
5.714,00
|
-44,00
|
-0,76%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.758,00
|
+9,00
|
+0,51%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.700,00
|
-20,00
|
-0,74%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
21.150,00
|
0,00
|
0,00%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
357,00
|
-0,25
|
-0,07%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
419,50
|
+0,75
|
+0,18%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
234,00
|
+2,25
|
+0,97%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
9,61
|
0,00
|
-0,05%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.012,00
|
+0,50
|
+0,05%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
315,60
|
+0,70
|
+0,22%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
35,86
|
-0,14
|
-0,39%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
496,00
|
-2,10
|
-0,42%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.127,00
|
-80,00
|
-3,62%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
149,00
|
+1,30
|
+0,88%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
20,56
|
+0,08
|
+0,39%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
183,90
|
+1,20
|
+0,66%
|
Bông
|
US cent/lb
|
73,14
|
-0,05
|
-0,07%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
328,80
|
+6,20
|
+1,92%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
299,70
|
+8,80
|
+3,03%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,49
|
-0,01
|
-0,73%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg