menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG sáng 12/4/2019: Giá đồng loạt đi xuống

16:10 12/04/2019

Vinanet -Phiên 11/4/2019, giá hầu hết các mặt hàng đi xuống, kể cả dầu mỏ.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm do đồn đoán về khả năng OPEC sẽ nâng sản lượng dầu từ tháng Bảy tới. Kết thúc phiên, dầu ngọt nhẹ (WTI) của Mỹ kỳ hạn giao sau giảm 1,03 USD, xuống 63,58 USD/thùng. Trong khi đó, tại thị trường London, giá dầu Brent Biển Bắc giao kỳ hạn cũng hạ 90 US cent, xuống 70,83 USD/thùng.
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) có thể nâng sản lượng từ tháng 7/2019 nếu nguồn cung của Venezuela và Iran tiếp tục bị thu hẹp và giá dầu duy trì đà tăng hiện nay. Một số đánh giá cho rằng việc OPEC gia hạn thoả thuận cắt giảm sản lượng cùng với Nga và một số đồng minh khác có thể khiến nguồn cung dầu toàn cầu bị thu hẹp quá mức.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cho biết, sản lượng dầu thô của Venezuela đã giảm xuống dưới 1 triệu thùng/ngày do các lệnh trừng phạt của Washington. Báo cáo ngày 11/4/2019 cho thấy sản lượng của nước này còn chưa đạt mức 960.000 thùng mỗi ngày.
Trong khi đó, nguồn cung của Iran có thể giảm sâu hơn nữa sau tháng 5/2019 như nhiều người dự đoán, nếu Mỹ siết chặt các biện pháp trừng phạt đối với Tehran.
OPEC và các đồng minh trong đó có Nga dự kiến sẽ nhóm họp tại Vienna (Áo) vào ngày 25-26/6 tới để đưa ra chính sách tiếp theo. Theo IEA, tổng sản lượng của OPEC đã giảm 550.000 thùng/ngày trong tháng 3/2019, xuống còn 30,1 triệu thùng/ngày. Cơ quan điều phối chính sách năng lượng của các quốc gia phát triển này cũng lưu ý, lượng dự trữ dầu ở các nước công nghiệp giảm 21,7 triệu thùng trong tháng 2/2019, khiến lượng dầu tồn kho trên toàn cầu cao hơn 16 triệu thùng so với mức trung bình 5 năm qua.
Tuy nhiên, thị trường vẫn lo ngại về nguồn cung gia tăng ở Mỹ. Báo cáo ngày 10/4/2019 của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho hay dự trữ dầu thô của nước này trong tuần kết thúc ngày 5/4/2019 đã tăng 7 triệu thùng lên 456,6 triệu thùng, mức cao nhất kể từ tháng 11/2017. Cũng theo EIA, sản lượng dầu thô của Mỹ vẫn giữ ở mức kỷ lục là 12,2 triệu thùng/ngày, qua đó đưa Mỹ vượt qua Nga và Saudi Arabia trở thành nước sản xuất dầu lớn nhất thế giới.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống dưới 1.300 USD/ounce do USD mạnh lên. Kết thúc phiên giao dịch, vàng giao ngay giảm 1,3% xuống 1.290,34 USD/ounce, trong khi vàng kỳ hạn giảm 1,6% xuống 1.293,3 USD/oune.
Chỉ số đồng USD so với rổ 6 tiền tệ chủ chốt đã tăng sau số liệu cho thấy giá thành sản xuất ở Mỹ trong tháng 3 vừa qua tăng mạnh nhất 5 tháng, và số đơn xin trợ cấp thất nghiệp hàng tuần giảm xuống thấp nhất kể từ 1969. Chỉ số dollar index đã tăng 0,22% lên 97,13 lúc thị trường gần đóng cửa giao dịch. Giá vàng và đồng USD thường có xu hướng diễn biến ngược chiều. Nếu USD lên giá, vàng được định giá bằng đồng tiền này sẽ trở nên đắt hơn với những nhà đầu tư mua bằng các đồng tiền khác.
Ngày 11/4/2019, Bộ Lao động Mỹ công bố số liệu cho thấy số đơn xin trợ cấp thất nghiệp ở Mỹ giảm mạnh tới 8.000 đơn, xuống còn 196.000 trong tuần kết thúc ngày 6/4/2019. Đây là dấu hiệu về một thị trường lao động mạnh, điều sẽ thúc đẩy kinh tế Mỹ, qua đó làm giảm bớt lo ngại về sự tuột dốc của tăng trưởng kinh tế toàn cầu, yếu tố hỗ trợ giá vàng trong những phiên gần đây.
Hội đồng châu Âu sáng 11/4/2019 đã nhất trí gia hạn tiến trình Anh ra khỏi Liên minh châu Âu, được gọi là Brexit, thêm sáu tháng, đặt ra một thời hạn mới là ngày 31/10/2019 nhằm tránh một kịch bản Brexit không thỏa thuận mà theo kế hoạch trước đó sẽ diễn ra trước ngày 12/4/2019.
Theo các nhà phân tích thị trường, việc cuộc khủng hoảng Brexit tạm thời được xoa dịu đã làm giảm sức hấp dẫn của vàng. Hoạt động chốt lời cũng là nguyên nhân khiến giá kim loại quý này giảm sau bốn phiên tăng liên tiếp trước đó.
Đối với những kim loại quý khác, giá bạc giảm 1,9% xuống 14,92 USD/ounce, bạch kim giảm 1,2% xuống 890,34 USD/ounce, palađi giảm 2% xuống 1.360,38 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm trong phiên vừa qua do USD mạnh lên và lo ngại kinh tế toàn cầu suy yếu. Trong khi đó giá chì giảm xuống mức thấp nhất hơn 3 tháng bởi dự báo tiêu thụ ô tô chậm lại sẽ ảnh hưởng tới nhu cầu nguyên liệu sản xuất ắcquy (dùng trong ô tô).
Trên sàn London (LME), giá đồng giảm 0,9% xuống 6.408 USD/tấn, trong khi đó chì giảm 1,4% xuống 1.926 USD/tấn, thấp nhất kể từ 18/12/2018.
Lo ngaị về kinh tế toàn cầu gia tăng sau khi Ngân hàng Trung ương châu Âu ngày 11/4/2019 nhấn mạnh những mối “đe dọa” đối với tăng trưởng toàn cầu, nhất là việc Tổng thống Mỹ Donald Trump mới đây dọa sẽ áp thuế mới đối với hàng loạt mặt hàng nhập khẩu từ Liên minh Châu Âu.
Sau một phiên ổn định, giá quặng sắt và thép trên thị trường Trung Quốc tăng tiếp do dự báo nhu cầu tại thị trường này vẫn mạnh, chủ yếu bởi lĩnh vực xây dựng.
Quặng sắt giao tháng 9/2019 trên sàn Đại Liên tăng 1,2% lên 654,5 CNY/tấn. Thép cây kỳ hạn giao tháng 10/2019 trên sàn Thượng Hải tăng 1,4% tương đương 3.808 CNY (567,01 USD)/tấn, mức cao nhất kể từ tháng 9/2011; thép cuộn cán nóng cũng tăng gần 1% lên 3.703 CNY/tấn.
Có tin các nhà máy thép trên toàn bộ miền Bắc Trung Quốc đang tăng sản lượng. Cùng với việc kết thúc giai đoạn hạn chế sản xuất trong mùa Đông, nhu cầu quặng sắt sẽ còn tăng thêm nữa trong tương lai gần. Trang Nikkei Asian Review dẫn thông tin từ công ty khai thác quặng sắt CEO Elizabeth Gaines thuộc tập đoàn Fortescue Metals Group dự báo sản lượng thép thô của Trung Quốc sẽ tăng 3-4% trong năm nay.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica quay đầu giảm trong phiên vừa qua, xuống mức thấp nhất gần 13 năm, do đồng real Brazil yếu đi và khả năng nguồn cung nhiều lên. Arabica giao tháng 5/2019 trên sàn New York đã mất 4 UScent tương đương 4,2% chỉ còn 90,25 UScent/lb vào lúc cuối phiên, trước đó có lúc chỉ còn 90,15 UScent, thấp nhất trong vòng hơn 13 năm. Đây là mức giảm trong ngày nhiều nhất kể từ cuối tháng 11 năm ngoái.
Robusta trên sàn London cũng giảm 16 USD tương đương 2,3% xuống 1.392 USD/tấn vào cuối phiên, sau khi có lúc chỉ 1.381 USD – mức thấp nhất 3 năm.
Tại Châu Á, giá cà phê nội địa ở Việt Nam tuần này giảm do Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO) nâng dự báo về lượng dư cung trên toàn cầu, trong khi mức cộng cà phê Indonesia tiếp tục nới rộng.
Tại Việt Nam, cà phê nhân xô ở Tây Nguyên được bán với giá 30.900-31.800 đồng (1,33-1,37 USD)/kg, so với 31.600-32.500 đồng cách đây một tuần; cà phê xuất khẩu loại 2 (5% đen & vỡ) đang được chào bán với giá trừ lùi 60 USD/tấn so với hợp đồng giao tháng 7/2019 trên sàn London, nhích nhẹ so với mức trừ lùi 75 USD/tấn cách đây một tuần.
Tại Indonesia, cà phê robusta xuất khẩu có giá dao động từ +100-110 USD /tấn đến +150 USD/tấn so với hợp đồng giao tháng 5 trên sàn London (loại 4, 80 hạt lỗi), tăng so với 100-110 USD cách đây một tuần.
ICO tuần trước đã nâng dự báo về sản lượng robusta toàn cầu niên vụ 2018/19 lên 64,37 triệu bao, từ mức 63,50 triệu bao đưa ra trước đây.
Giá đường thô phiên vừa qua giảm 0,15 UScent tương đương 1,2% xuống 12,66 UScent/lb, trong khi đường trắng giảm 3,7 USD tương đương 1,1% xuống 323 USD/tấn.
Đậu tương và ngô cũng giảm trong phiên vừa qua sau số liệu cho thấy xuất khẩu những mặt hàng này tuần qua của Mỹ giảm và dự báo Nam Mỹ sẽ bội thu. Đậu tương trên sàn Chicago giảm. Tuy nhiên, lúa mì tăng do hoạt động mua mạnh sau 5 phiên giá giảm.
Đậu tương trên sàn Chicago giảm 6-3/4 Uscent xuống 8,95-1/4 USD/bushel, trong khi ngô giảm 1-3/4 UScent xuống 3,60 USD/bushel. Lúa mì tăng 2-1/2 Uscent lên 4,60-1/2 USD/bushel.
Giá hàng hóa thế giới

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

63,58

-1,03

Dầu Brent

USD/thùng

70,83

-0,90

-1,25%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

46.880,00

+10,00

+0,02%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,68

+0,01

+0,49%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

203,35

+0,26

+0,13%

Dầu đốt

US cent/gallon

207,31

+0,59

+0,29%

Dầu khí

USD/tấn

632,75

+3,00

+0,48%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

64.480,00

-110,00

-0,17%

Vàng New York

USD/ounce

1.295,40

-2,10

-0,16%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.628,00

-33,00

-0,71%

Bạc New York

USD/ounce

14,92

+0,05

+0,36%

Bạc TOCOM

JPY/g

53,80

-0,90

-1,65%

Bạch kim

USD/ounce

893,10

-0,11

-0,01%

Palađi

USD/ounce

1.369,09

-2,00

-0,15%

Đồng New York

US cent/lb

289,45

+0,75

+0,26%

Đồng LME

USD/tấn

6.408,00

-56,00

-0,87%

Nhôm LME

USD/tấn

1.860,00

-4,00

-0,21%

Kẽm LME

USD/tấn

2.865,00

-8,00

-0,28%

Thiếc LME

USD/tấn

20.575,00

-275,00

-1,32%

Ngô

US cent/bushel

368,75

-2,00

-0,54%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

465,50

+4,00

+0,87%

Lúa mạch

US cent/bushel

280,00

+1,00

+0,36%

Gạo thô

USD/cwt

10,29

+0,05

+0,49%

Đậu tương

US cent/bushel

895,25

-6,75

-0,75%

Khô đậu tương

USD/tấn

311,00

-2,80

-0,89%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,31

-0,07

-0,24%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

456,20

+0,20

+0,04%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.378,00

-45,00

-1,86%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

92,70

-4,05

-4,19%

Đường thô

US cent/lb

12,82

-0,16

-1,23%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

107,15

-1,45

-1,34%

Bông

US cent/lb

77,74

-0,72

-0,92%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

340,30

-2,10

-0,61%

Cao su TOCOM

JPY/kg

191,70

-0,20

-0,10%

Ethanol CME

USD/gallon

1,34

+0,01

+0,75%

Nguồn: Bloomberg, Reuters, CafeF

 

Nguồn:Vinanet